Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 26/04/2011-08:51:00 AM
Báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2011
Báo cáo của Vụ Kinh tế công nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 26/4/2011
1. Tình hình chung:
Tháng 4 năm 2011 giá trị sản xuất công nghiệp (GTSXCN) ước đạt 71.631 tỷ đồng tăng 4,5% so với tháng 3 năm 2011 và tăng 14,3% so cùng kỳ. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 14.921 tỷ đồng tăng 3,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng ước đạt 26.489 tỷ đồng tăng 17,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 30.220 tỷ đồng tăng 17,5% so với cùng kỳ.
Cộng dồn 4 tháng năm 2011 GTSXCN ước đạt 270.502 tỷ đồng tăng 14,2% so với cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước ước đạt 54.957 tỷ đồng chiếm 20,3% GTSXCN, tăng 5,1%; khu vực ngoài nhà nước ước đạt 101.110 tỷ đồng chiếm 37,4% GTSXCN, tăng 16,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 114.434 tỷ đồng chiếm 42,3% GTSXCN, tăng 16,7% so với cùng kỳ.
4 tháng đầu năm 2011 nhiều sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN có mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ, cụ thể: khí hoá lỏng (LPG) tăng 32,5%; sơn hoá học các loại tăng 18,8%; sữa bột tăng 18,5%; đường kính tăng 34,7%; quần áo mặc thường cho người lớn tăng 17,6%; giày thể thao tăng 17%; bình đun nước nóng tăng 78,7%; máy giặt tăng 24,9%; xe chở khách tăng 21,8%;
Một số sản phẩm tăng trưởng thấp hơn kế hoạch ngành gồm: thuỷ hải sản chế biến tăng 12,4%; giấy bìa các loại tăng 13,8%; dầu mỏ thô khai thác tăng 2,3%; điện sản xuất tăng 9,4%; than đá tăng 3,1%; thép tròn các loại tăng 8%; lốp ô tô, máy kéo giảm 4,8%; vải dệt từ sợi bông tăng 1,4%; phân hoá học tăng 5%; thuốc lá điếu tăng 9,4%.
Bên cạnh đó, một số mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm 2010 như: khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 1,3%; gạch bằng đất nung giảm 4,6%; điều hoà nhiệt độ giảm 6,7%; tủ lạnh, tủ đá giảm 22,1%; tivi các loại giảm 1,1%; sản xuất xe ô tô tải giảm 29,8%.
Một số nhận xét:
- Về tăng trưởng công nghiệp 4 tháng đầu năm 2011: về tốc độ tăng trưởng đạt mức kế hoạch năm 2011, trong đó khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng cao trong GTSXCN, trong khi khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Các sản phẩm có tốc độ tăng trưởng cao gồm một số sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước (khí hoả lỏng; sữa bột; đường kính; bình đun nước nóng; máy giặt, xe chở khách) và xuất khẩu (giày thể thao, quần áo).
- Kể từ 22h ngày 29/3/2011 các mặt hàng xăng, dầu diesel, dầu ma-zút đều được điều chỉnh tăng giá. Giá xăng tăng 2.000 đồng một lít, loại A92 từ 19.300 đồng hiện nay lên 21.300 đồng/lít. Dầu diezen có mức tăng cao nhất 2.800 đồng/lít (dầu diesel 0,05S có giá 21.100 đồng/lít; dầu diesel 0,25S có giá 21.050 đồng/lít) Dầu hoả tăng 2.600 đồng/lít (từ 18.200 đồng/lít lên 20.800 đồng/lít). Mazut tăng 2.000 đồng/kg (dầu Mazut 3,5S tăng từ 14.800 đồng/kg lên 16.800 đồng/kg).
Việc điều chỉnh giá xăng dầu lần này được thực hiện theo:
+ Nghị định số 84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về Kinh doanh xăng dầu;
+ Thông báo số 33/BTC- QLG ngày 29 tháng 3 năm 2011 của Bộ Tài Chính về việc điều hành giá xăng dầu.
Nguyên nhân của việc tăng giá xăng dầu là do giá xăng dầu thế giới biến động mạnh do chiến sự tại Libya và nguồn cung được dự báo là có thể khan hiếm. Tại thị trường trong nước, Nhà máy Lọc dầu số 1 Dung Quất – nơi cung cấp khoảng 30% lượng hàng đang trong giai đoạn dừng hoạt động để kiểm tra, bảo dưỡng. Việc dừng này khiến cho thị trường thiếu khoảng 400.000 m­3 sản phẩm các loại. Trong thời gian qua, giá xăng thành phẩm giao dịch tại thị trường Singapore đã vọt lên mức 118,71 USD một thùng.Các loại dầu dao động quanh ngưỡng 131,6 đến 131,8 USD/thùng.
- Tình hình giá thép xây dựng: sau khi một số nhà cung cấp trong nước tăng giá thép xây dựng vào đầu tháng 3, hiện nay, với việc tăng giá bán xăng dầu thì giá bán của một số nhà sản xuất thép trong nước chưa có sự biến động lớn.
2. Tình hình cụ thể một số ngành sản xuất 4 tháng đầu năm 2011:
- Điện sản xuất ước thực hiện 4 tháng năm 2011 đạt 30,8 tỷ Kwh tăng 9,4% so cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác ước đạt 4,87 triệu tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ; khí đốt thiên nhiên dạng khí khai thác ước đạt 3,12 tỷ m3 giảm 1,3%; khí hoá lỏng (LPG) ước đạt 209,9 nghìn tấn tăng 32,5% so cùng kỳ năm 2010.
- Than khai thác ước đạt 14,9 triệu tấn tăng3,1% so cùng kỳ.
- Thép tròn các loại ước đạt 1,53 triệu tấn, tăng 8% so cùng kỳ.
- Xi măng ước đạt 18,7 triệu tấn, tăng 11,5% so cùng kỳ.
- Lắp ráp ôtô ước đạt 26,9 nghìn chiếc tăng 1,7% so cùng kỳ; xe máy ước đạt 1,24 triệu chiếc xe tăng 9% so cùng kỳ.
- Bia các loại ước đạt 714,6 triệu lít tăng 9,2% so cùng kỳ.
- Phân hoá học (chưa tính NPK) ước đạt 871,2 nghìn tấn tăng 5%.
3. Về xuất nhập khẩu:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 4 tháng đầu năm 2011 ước đạt 26,93 tỷ USD tăng 35,7% so cùng kỳ năm 2010.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô ước đạt 2,88 triệu tấn tăng 2,5% (về kim ngạch xuất khẩu đạt 2,45 tỷ USD tăng 41%); than đá ước đạt 4 triệu tấn giảm 40,2% (kim ngạch xuất khẩu đạt 389 triệu USD giảm 20% so cùng kỳ); hàng dệt may ước đạt 3,92 tỷ USD tăng 33,1% so với cùng kỳ; hàng giày dép ước đạt 1,74 tỷ USD tăng 26,4%; máy vi tính, sp điện tử và linh kiện ước đạt 1,06 tỷ USD tăng 11,3%; túi xách, vali, mũ và ô dù ước đạt 381 triệu USD tăng 40,6%; dây và cáp điện đạt 431 triệu USD tăng 11,1%; sắt thép ước đạt 543 nghìn tấn tăng 58,1% (kim ngạch xuất khẩu ước đạt 520 triệu USD tăng 58% so với cùng kỳ);sản phẩm sắt thép ước đạt 284 triệu USD tăng 15,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng ước đạt 1,1 tỷ USD tăng 23,7% so cùng kỳ năm 2010.
Như vậy, trong 4 tháng đầu năm 2010 giá hàng xuất khẩu (như dầu thô, than đá) tăng khá là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho kim ngạch xuất khẩu tăng. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp hơn so với cùng kỳ năm 2010 như: hóa chất; đá quý, kim loại quý và sản phẩm, hạt điều, cà phê và chè.
Đáng lưu ý là các mặt hàng công nghiệp nặng, cơ khí chế tạo tham gia xuất khẩu đạt cao hơn so với cùng kỳ gồm sắt thép, các sản phẩm sắt thép và máy móc, thiết bị và phụ tùng.
b.Nhậpkhẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước trong tháng 4 năm 2011 ước đạt 8,7 tỷ USD; ước thực hiện 4 tháng đầu năm 2011 đạt 31,83 tỷ USD tăng 29,1% so cùng kỳ năm 2010.
Một số mặt hàng công nghiệp nhập khẩu chủ yếu trong 4 tháng năm 2011 gồm: xăng dầu các loại ước đạt 4,08 triệu tấn tăng 17,9% về lượng; khí đốt hóa lỏng ước đạt 179 nghìn tấn giảm 6,3% về lượng; các sản phẩm khác từ dầu mỏ ước đạt 275 triệu USD tăng 26,7% về giá trị; hóa chất ước đạt 815 triệu USD tăng 31,5%; sản phẩm hóa chất ước đạt 742 triệu USD tăng 27,7%; giấy các loại ước đạt 347 nghìn tấn tăng 22,6%; bông các loại ước đạt 138 nghìn tấn tăng 10,4%; sợi các loại ước đạt 206 nghìn tấn tăng 21,9%; vải các loại ước đạt 2,1 tỷ USD tăng 42,1%; nguyên phụ liệu dệt may da ước đạt 915 triệu USD tăng 20,7%; sắt thép các loại ước đạt trên 2,39 triệu tấn giảm 8,6% (trong đó phôi thép ước đạt 406 nghìn tấn giảm 38,86%); kim loại thường ước đạt 210 nghìn tấn tăng 9,4%; máy tính và linh kiện điện tử ước đạt 1,75 tỷ USD tăng 29,3%; máy móc thiết bị phụ tùng ước đạt hơn 4,68 tỷ USD tăng 17%; ôtô nguyên chiếc các loại ước đạt 20.993 chiếc tăng 60%; linh kiện phụ tùng ôtô ước đạt 644 triệu USD tăng 7%; xe máy nguyên chiếc ước đạt 28.775 chiếc giảm 4,3%; linh kiện xe máy ước đạt 286 triệu USD tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2010./.

Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư

    Tổng số lượt xem: 1414
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)