Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 30/12/2021-09:53:00 AM
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 12, quý IV và năm 2021 tỉnh Hậu Giang

Trong năm 2021, mặc dù tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhưng Tỉnh đã triển khai các giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu tác động của dịch Covid-19, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sớm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Cụ thể như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2021, tăng 3,08% so với năm 2020. Trong đó, khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,04%[1], đóng góp 1,11 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và hoạt động xây dựng tăng 5,32%[2], đóng góp 1,3 điểm phần trăm; khu vực thương mại và dịch vụ tăng 0,89%[3], đóng góp 0,34 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,38% so cùng kỳ, đóng góp 0,34 điểm phần trăm.

Quy mô nền kinh tế năm 2021 ước đạt 39.726 tỷ đồng (theo giá hiện hành). Về cơ cấu kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 26,96%, tăng 0,14% so với năm 2020, giá trị tăng thêm đạt 10.709 tỷ đồng; khu vực công nghiệp và xây dựng có mức chuyển dịch tăng 0,68%, giá trị tăng thêm đạt 9.674 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 24,35% trong cơ cấu nền kinh tế; khu vực thương mại và dịch vụ có mức chuyển dịch giảm 0,84%, với giá trị tăng thêm đạt 15.416 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 38,81%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm có mức chuyển dịch tăng 0,03%, với giá trị tăng thêm ước đạt 3.926 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 9,88% trong cơ cấu nền kinh tế năm 2021.

GRDP bình quân đầu người cả năm 2021 ước đạt 54,43 triệu đồng/người/năm tăng 2,5 triệu đồng/người so với năm 2020.

2. Tài chính, tín dụng

2.1. Tài chính

Ước tổng thu NSNN năm 2021 là 11.256,5 tỷ đồng, đạt 144,10% dự toán Trung ương, đạt 102,19% dự toán HĐND tỉnh, so với dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm 2021 (dự toán đầu năm 7.876,73 tỷ đồng) tổng thu ngân sách nhà nước đạt 142,91%, vượt 42,91%. Trong đó:

- Thu ngân sách nhà nước Trung ương hưởng 1.462,99 tỷ đồng, đạt 160,17% dự toán Trung ương, đạt 109,07% dự toán HĐND tỉnh, vượt 9,07%, tương đương 121,69 triệu đồng.

- Thu ngân sách nhà nước địa phương hưởng 9.793,49 tỷ đồng, đạt 141,97% dự toán Trung ương, đạt 101,24% dự toán HĐND tỉnh, vượt 1,24%, tương đương 119,88 tỷ đồng.

Ước tổng chi NSĐP năm 2021 là 9.753,17 tỷ đồng, đạt 140,43% dự toán Trung ương, đạt 101,24% dự toán HĐND tỉnh. so với dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm 2021 (dự toán đầu năm 6.922,99 tỷ đồng) chi ngân sách địa phương đạt 140,88%, vượt 40,88%. Trong đó:

- Chi đầu tư phát triển 4.261,25 tỷ đồng, đạt 99,86% dự toán HĐND tỉnh.

- Chi thường xuyên 5.017,48 tỷ đồng, đạt 101,16% dự toán HĐND tỉnh.

2.2. Tín dụng ngân hàng

Đến ngày 30/11/2021, tổng vốn huy động (bao gồm ngoại tệ quy đổi VND) toàn địa bàn là 16.322 tỷ đồng, tăng trưởng 1,76% so với tháng trước, tương ứng tăng trưởng 2,13% so với cuối năm 2020. Vốn huy động đáp ứng được 56,96% cho hoạt động tín dụng. Huy động đối với kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 8.450 tỷ đồng (chiếm 51,77% tổng huy động), kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 7.872 tỷ đồng (chiếm 48,23% tổng huy động). Ước thực hiện đến cuối tháng 12/2021, tổng vốn huy động trên toàn địa bàn đạt 16.691 tỷ đồng, tăng trưởng 2,26% so với cuối tháng 11/2021, tương ứng tăng trưởng 4,44% so với cuối năm 2020.

Đến ngày 30/11/2021, tổng dư nợ cho vay (bao gồm ngoại tệ quy đổi VND) toàn địa bàn là 28.653 tỷ đồng, tăng trưởng 0,97% so với cuối tháng trước, tương ứng tăng trưởng 7,11% so với cuối năm 2020. Trong đó: Dư nợ cho vay ngắn hạn là 14.988 tỷ đồng (chiếm 52,31% tổng dư nợ); dư nợ cho vay trung, dài hạn là 13.665 tỷ đồng (chiếm 47,69% tổng dư nợ). Ước thực hiện đến cuối tháng 12/2021 dư nợ đạt 28.932 tỷ đồng, tăng trưởng 0,97% so với cuối tháng 11/2021, tương ứng tăng trưởng 8,15% so với cuối năm 2020.

Nợ quá hạn đến ngày 30/11/2021 là 806 tỷ đồng, chiếm 2,81%/tổng dư nợ; nợ xấu là 423 tỷ đồng, chiếm 1,48%/tổng dư nợ; nợ cần chú ý là 383 tỷ đồng, chiếm 47,52%/tổng nợ quá hạn. Dự báo đến cuối tháng 12/2021 nợ xấu toàn địa bàn vẫn được kiểm soát ở mức an toàn theo mục tiêu đề ra.

Kết quả một số chương trình tín dụng trọng điểm:

- Cho vay thu mua lúa, gạo xuất khẩu và tiêu dùng dư nợ 2.160 tỷ đồng, tăng trưởng 16,69% so với cuối năm 2020.

- Cho vay nuôi trồng, chế biến thủy sản dư nợ 3.591 tỷ đồng, tăng trưởng 14,66% so với cuối năm 2020, với 1.358 hộ dân và 10 doanh nghiệp còn dư nợ; nợ xấu 17 tỷ đồng, chiếm 0,47%.

- Các chương trình tín dụng chính sách dư nợ đạt 2.909 tỷ đồng, tăng trưởng 10,31% với cuối năm 2020.

- Cho vay lĩnh vực kinh tế tập thể dư nợ 241 tỷ đồng, tăng trưởng 13,15% so với cuối năm 2020, với 47 hợp tác xã còn dư nợ.

- Chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp dư nợ đạt 7.541 tỷ đồng, tăng trưởng 12,15% so với cuối năm 2020, với 419 doanh nghiệp được tiếp cận vốn.

- Cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn dư nợ 19.665 tỷ đồng, tăng trưởng 11,66% so với cuối năm 2020, chiếm 69,44%/tổng dư nợ.

- Cho vay xây dựng nông thôn mới toàn địa bàn dư nợ 11.131 tỷ đồng, tăng trưởng 13,74% so với cuối năm 2020, với 122.820 hộ dân và 151 doanh nghiệp, 25 hợp tác xã còn dư nợ.

- Kết quả thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: Lũy kế từ 23/01/2020 đến nay, toàn ngành Ngân hàng trên địa bàn đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ: nợ gốc 2.649 tỷ đồng, nợ lãi 40,43 tỷ đồng, số khách hàng là 1.059 khách hàng; miễn, giảm lãi 147 tỷ đồng, 73 khách hàng, số tiền lãi được miễn, giảm là 0,78 tỷ đồng; doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đên nay là 7.361 tỷ đồng.

3. Chỉ số giá

Chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 12 năm 2021 so tháng trước bằng 99,61%; so với kỳ gốc 2019 bằng 105,30%; so với tháng 12 năm trước bằng 102,47%.

Chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng quý IV/2021 so quý trước bằng 105,55%, so với cùng kỳ bằng 102,47% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 bằng 102,69%. Nguyên nhân tăng do một số nhóm hàng tăng, cụ thể:

Nhóm hàng lương thực, thực phẩm: Chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 10,04% so quý trước, so với cùng kỳ giảm 1,19% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,08%. Nguyên nhân do giá lúa gạo tăng so với quý trước và cùng kỳ.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống: Bình quân chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 10,13% so quý trước, so với cùng kỳ giảm 0,89% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,16%.

Nhóm hàng ăn uống ngoài gia đình: Bình quân chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 7,10% so quý trước, so với cùng kỳ tăng 2,69% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,65%. Nguyên nhân tăng do nhu cầu trong năm tình hình dịch covid-19 diễn biến phức tạp, người dân hạn chế đi lại nhiều, chủ yếu bán đồ mang đi, hàng hóa được mua với số lượng lớn hơn bình thường để dự trữ nhiều ngày trong nhà nên giá tăng.

Nhóm hàng đồ uống thuốc lá: Bình quân chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 3,91% so quý trước, so với cùng kỳ tăng 3,16% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,46%.

Nhóm hàng may mặc, mũ nón, giày dép: Chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 4,54% so quý trước, so với cùng kỳ tăng 1,98 % và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,09%.

Nhóm hàng giao thông: Chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 9,04% so quý trước, so với cùng kỳ tăng 16,43% và bình quân cả năm 2021 so với cả năm 2020 tăng 11,32%.

Nhóm hàng giáo dục: Bình quân chỉ số giá nhóm các mặt hàng này tăng 8,08% so quý trước, so với cùng kỳ tăng 2,60% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 2,76%.

Chỉ số giá vàng: Giá vàng 24K kiểu nhẫn tròn; bình quân chỉ số giá nhóm mặt hàng này tăng 35,89% so quý trước, so với cùng kỳ giảm 3,21% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 tăng 8,07%. Nguyên nhân tăng do ảnh hưởng giá vàng thế giới tăng, các công ty kinh doanh vàng trong nước cũng điều chỉnh tăng.

Chỉ số giá Đô la Mỹ: Bình quân chỉ số giá nhóm mặt hàng này giảm 1,67% so quý trước, so với cùng kỳ giảm 0,52% và bình quân cả năm 2021 so với bình quân cả năm 2020 giảm 0,96%.

4. Đầu tư và xây dựng

4.1. Vốn đầu tư

Ước tính quý IV/2021, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện được 4.089,67 tỷ đồng, so với quý trước bằng 102,51% và so với cùng kỳ năm trước (5.539,35 tỷ đồng) bằng 73,83% bao gồm các nguồn như sau:

- Vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 1.253,52 tỷ đồng, so với quý trước bằng 119,16% và so với cùng kỳ năm trước bằng 77,85%.

- Vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 2.708,64 tỷ đồng, so với quý trước bằng 96,05% và so với cùng kỳ năm trước bằng 73,86%.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 127,51 tỷ đồng, so với quý trước bằng 108,36% và so với cùng kỳ năm trước bằng 48,70%.

Nguyên nhân vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý IV/2021 tăng so với quý trước là do: Dịch bệnh được kiểm soát, các biện pháp dần được nới lỏng tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án công trình đang thi công; Thực hiện chỉ đạo của các cấp các ngành tăng cường giải ngân vốn đầu tư các hạn mục đã hoàn thành, các chủ đầu tư đẩy nhanh thanh quyết toán trong quý IV. Do đó, giá trị vốn đầu tư tăng cao so với quý III.

Ước tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Hậu Giang thực hiện cả năm 2021 là: 17.330,55 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước (21.369,24 tỷ đồng) bằng 81,10% và so với kế hoạch năm (17.741,5 tỷ đồng) đạt 97,68%. Bao gồm các nguồn như sau:

- Vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 4.253,66 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 81,98%.

- Vốn huy động trong dân và các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 12.366,79 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 82,28%.

- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh thực hiện được 710,11 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 61,72%.

4.2. Xây dựng

Ước tính quý IV/2021, giá trị sản xuất ngành xây dựng tính theo giá thực tế được 2.651,42 tỷ đồng, tính theo giá so sánh 2010 được 1.732,76 tỷ đồng, tăng 22,48%[4] so với quý trước và tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Công trình nhà ở được 1.046,84 tỷ đồng, tăng 24,26% so quý trước và tăng 94,63% so với cùng kỳ năm trước.

- Công trình nhà không để ở được 225,20 tỷ đồng, tăng 2,24% so với quý trước và giảm 49,66% so với cùng kỳ.

- Công trình kỹ thuật dân dụng được 387,07 tỷ đồng, tăng 26,11% so với quý trước và giảm 22,65% so với cùng kỳ năm trước.

- Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 73,65 tỷ đồng, tăng 63,44% so với quý trước và giảm 59,08% so với cùng kỳ năm trước.

Ước tính năm 2021, tổng giá trị sản xuất ngành xây dựng tính theo giá thực tế được 8.629,42 tỷ đồng, tính theo giá so sánh 2010 được 5.718,30 tỷ đồng, tăng 3,10%[5] so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Công trình nhà ở được 3.360,78 tỷ đồng, tăng 22,60% so với cùng kỳ năm trước.

- Công trình nhà không để ở được 1.012,80 tỷ đồng, giảm 20,3% so với cùng kỳ năm trước.

- Công trình kỹ thuật dân dụng được 1.117,39 tỷ đồng, giảm 7,33% so với cùng kỳ năm trước.

- Hoạt động xây dựng chuyên dụng được 216,34 tỷ đồng, giảm 13,03% với cùng kỳ năm trước.

5. Tình hình hoạt động của Doanh nghiệp (DN)

Ước tính tháng 12/2021, có 49 DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 330,41 tỷ đồng, giảm 39% về số DN và tăng 15% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ; số DN gặp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 13 DN, giảm 50% so với cùng kỳ; số DN đăng ký giải thể là 25 DN, giảm 50% so với cùng kỳ.

Ước tính năm 2021, có 541 DN đăng ký thành lập mới với số vốn đăng ký là 3.405,08 tỷ đồng, giảm 37% về số DN và giảm 64% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ; số DN gặp khó khăn tạm ngừng hoạt động là 129 DN, tăng 14% so với cùng kỳ; số DN đăng ký giải thể là 90 DN, giảm 49% so với cùng kỳ.

Về tình hình sản xuất và xu hướng sản xuất kinh doanh của DN: Sau khi tiến hành khảo sát về xu hướng sản xuất kinh doanh từ DN cung cấp so với quý trước: Có 41,03% DN đánh giá tốt lên và 23,08% DN đánh giá giữ nguyên và 35,90% DN đánh giá khó khăn hơn. Dự kiến quý tiếp theo, khảo sát về xu hướng sản xuất kinh doanh từ DN cung cấp thì có 53,85% DN đánh giá tốt hơn và 30,77% DN hoạt động giữ nguyên và 15,38% DN đánh giá khó khăn hơn so với quý trước.

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Nhìn chung, tình hình sản xuất nông nghiệp năm 2021 tăng trưởng khá, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch theo hướng sản xuất các sản phẩm có giá trị hàng hóa cao, có thị trường tiêu thụ, từng bước chuyển sang sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Việc áp dụng cơ giới hóa, tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh góp phần tích cực tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Trong năm, ngành Nông nghiệp tập trung chỉ đạo sản xuất các vụ lúa, phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật và kiểm tra vệ sinh thú y, phối hợp thực hiện tốt công tác kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm trong nông nghiệp. Ngoài ra Ngành còn không ngừng tuyên truyền, nâng cao ý thức người dân về phòng chống cháy rừng. Tăng cường chỉ đạo công tác khắc phục thiệt hại do dịch bệnh. Hướng dẫn các địa phương áp dụng các biện pháp chăn nuôi heo an toàn sinh học để bảo vệ và phát triển tổng đàn hiện có. Kết quả cụ thể từng lĩnh vực như sau:

6.1. Nông nghiệp

Năm 2021, tổng diện tích gieo trồng lúa toàn tỉnh được 189.001 ha, so với cùng kỳ giảm 4,66% (bằng 9.235 ha). Các giống lúa được sử dụng phổ biến là OM 5451, OM 18, Đài thơm 8, RVT, IR 50404,…. Năng suất sơ bộ đạt 67,48 tạ/ha, tăng 2,21% so với năm 2020. Sản lượng sơ bộ đạt 1.270.166 tấn, giảm 1,84% (bằng 23.835 tấn) so với năm 2020. Chia ra từng vụ như sau:

- Lúa Đông Xuân 2020-2021: Toàn tỉnh xuống giống được 77.021,7 ha, bằng 100,55% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 76.600 ha), so với cùng kỳ giảm 1,03% (bằng 798,5 ha). Năng suất đạt 78,18 tạ/ha, tăng 2,1% (bằng 1,61 tạ/ha) so với cùng kỳ, đạt 107,1% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 73,00 tạ/ha); Sản lượng đạt 602.156 tấn, tăng 1,06% (bằng 6.287 tấn) so với cùng kỳ, đạt 107,98% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 557.648 tấn).

- Lúa Hè Thu: Diện tích toàn tỉnh xuống giống được 76.616 ha, bằng 100,81% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 76.000 ha). Năng suất đạt 62,48 tạ/ha, tăng 2,83% (bằng 1,72 tạ/ha). Sản lượng đạt 478.697 tấn, tăng 1,87% (bằng 8.782 tấn).

- Lúa Thu Đông: Xuống giống được 35.363 ha, bằng 96,36% so với kế hoạch tỉnh (kế hoạch tỉnh 36.700 ha), giảm 17,91% (bằng 7.713,1 ha). Đã thu hoạch được 29.943 ha. Năng suất sơ bộ đạt 54,74 tạ/ha, tăng 3,30% (bằng 1,75 tạ/ha). Sản lượng sơ bộ đạt 193.577 tấn, giảm 15,19% (bằng 34.683 tấn), nguyên nhân do diện tích giảm mạnh so với cùng kỳ.

- Mía niên vụ 2020 - 2021: Xuống giống được 5.041 ha giảm 14,68% (bằng 867,5 ha) so với cùng kỳ, tập trung nhiều ở huyện Phụng Hiệp và thành phố Ngã Bảy. Hiện đang ở giai đoạn thu hoạch. Các giống sử dụng chủ yếu như: Roc16, K88-92, KK3, Roc22,...ước năng suất trung bình 100 tấn/ha, sản lượng năm 2021 ước đạt 504.100 tấn, giảm 14,62% (bằng 86.350 tấn). Nguyên nhân giảm là do trồng mía mấy năm nay không hiệu quả nên hộ chuyển đổi cây trồng.

- Cây ngô: Diện tích gieo trồng ước được 2.930,4 ha, so cùng kỳ năm trước giảm 1,27% (bằng 37,6 ha); sản lượng ước đạt 18.528,79 tấn, so cùng kỳ năm trước giảm 0,75% (bằng 139,56 tấn).

- Cây rau các loại: Diện tích gieo trồng 25.159,3 ha, so với năm trước tăng7,11% (bằng 1.669,30 ha); Ước sản lượng cả năm 2021 đạt 272.693,36 tấn, tăng 3,53% (bằng 9.301,28 tấn).

Tình hình gieo trồng và thu hoạch một số loại cây lâu năm chủ yếu của tỉnh ước tính năm 2021 như sau:

+ Cây dứa (khóm): Diện tích hiện có 2.908,55 ha, tăng 6,67% (bằng 181,92 ha), sản lượng sơ bộ năm 2021 đạt 38.374,12 tấn, tăng 35,47% (bằng 10.047,42 tấn) so với cùng kỳ. Tập trung ở TP.Vị Thanh và huyện Long Mỹ. Đây là sản phẩm chủ lực của tỉnh.

+ Cây bưởi: Diện tích hiện có 1.585,44 ha, giảm 0,63% (bằng 10,06 ha). Sản lượng ước đạt 17.089,44 tấn, tăng 71,08% (bằng 7.100,29 tấn) so với cùng kỳ.

+ Cây mít: Diện tích hiện có 8.680,67 ha, tăng 24,62% (bằng 1.714,96 ha), diện tích tăng chủ yếu ở các huyện như: Châu Thành, Châu Thành A, Phụng Hiệp, thành phố Ngã Bảy. Sản lượng đạt 74.675,23 tấn, tăng 39,20% (bằng 21.029,23 tấn) so với cùng kỳ.

+ Cây chanh không hạt: Diện tích hiện có 2.738,55 ha, tăng 15,21% (bằng 361,55 ha). Sản lượng đạt 25.634,07 tấn, tăng 35,24% (bằng 6.679,57 tấn) so với cùng kỳ.

+ Cây mãng cầu: Diện tích hiện có 690,22 ha, giảm 2,76% (bằng 19,56 ha). Sản lượng đạt 7.152 tấn, tăng 156,99% (bằng 4.369 tấn) so với cùng kỳ. Do diện tích thu hoạch tăng và năng suất được cải thiện.

6.2. Chăn nuôi

Ước tính tháng 12, số đầu con gia súc, gia cầm so với cùng kỳ cụ thể như sau:

- Đàn trâu, bò: Đàn trâu ước được 1.397 con, giảm 3,99% (bằng 58 con) so với cùng kỳ; Đàn bò ước được 3.527 con, giảm 4,21% (bằng 155 con) so với cùng kỳ.

- Đàn heo (tính cả heo con chưa tách mẹ): Ước được 141.265 con, tăng 14,78%[6] (bằng 18.187 con) so với cùng kỳ. Trong đó: Heo thịt 101.268 con, tăng 12,52% (bằng 11.271 con).

- Đàn gia cầm được 4.187,79 ngàn con, giảm 8,67 (bằng 397,37 ngàn con). Trong đó: đàn gà 1.768,22 ngàn con, tăng 0,04% (bằng 0,74 ngàn con). Nhìn chung đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh hiện nay giảm nhẹ, do những hộ đang nuôi gia cầm nay chuyển lại nuôi heo như trước khi chưa có xảy ra dịch tả lợn Châu Phi.

6.3. Lâm nghiệp

Tình hình chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được thực hiện nghiêm túc, ngành Kiểm lâm phối hợp với chính quyền địa phương tuyên truyền giáo dục, vận động nhân dân bảo vệ rừng, tăng cường tuần tra, kiểm soát, trang bị đầy đủ các trang thiết bị sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống xảy ra. Đặc biệt, tích cực phối hợp với các cấp, ngành và địa phương thực hiện công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân trong việc tham gia bảo vệ rừng; chủ động ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất xảy ra cháy rừng, tăng cường công tác tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng chống chặt phá, khai thác rừng trái pháp luật trên các địa bàn huyện, xã có rừng; kiểm tra việc thực hiện phương án phòng cháy chữa cháy rừng của chủ rừng và các địa phương.

Tiếp tục theo dõi, giám sát việc khai thác rừng trồng trên đất khoán của các hộ dân và tình hình triển khai thực hiện dự án di dời dân cư trong khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Ngành Nông nghiệp cũng có kế hoạch thực hiện Phương án quản lý rừng bền vững trong Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng giai đoạn 2021 - 2030.

Công tác phát triển lâm nghiệp, nghành Nông nghiệp đang triển khai thực hiện Kế hoạch trồng cây xanh phân tán và trồng rừng trên địa bàn tỉnh Hậu Giang giai đoạn năm 2021. Song song theo đó, cũng đã tham mưu xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trình UBND tỉnh ban hành.

Ước tính quý IV/2021, diện tích rừng trồng mới ước được 0,25 nghìn ha, so với cùng kỳ tăng 3,63%. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 3,09 nghìn m3, so với cùng kỳ tăng 1,43%. Sản lượng củi khai thác ước đạt 8,39 nghìn ste, giảm 2,76% so với cùng kỳ.

Ước thực hiện năm 2021, diện tích rừng trồng mới ước được 0,43 nghìn ha, so với cùng kỳ tăng 2,38%. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 14,28 nghìn m3, so với cùng kỳ tăng 0,63%. Sản lượng củi khai thác ước đạt 68,23 nghìn ste, tăng 0,15% so với cùng kỳ.

6.4. Thủy sản

Ước tính quý IV/2021, tổng sản lượng thủy sản toàn tỉnh đạt 26.372 tấn, tăng 5,12% so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 25.908 tấn, tăng 5,19% so với cùng kỳ, sản lượng thủy sản khai thác đạt 464 tấn, tăng 1,65% so với cùng kỳ.

Ước năm 2021, diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh ước tính được 8.137,87 ha, đạt 100,47% so kế hoạch năm (8.100 ha) và tăng 0,85%[7] (bằng 68,78 ha) so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể: Diện tích nuôi cá 7.958,28 ha, tăng 59,71 ha; diện tích nuôi tôm ước được 98,12 ha, tăng 6,62 ha tập trung nhiều ở huyện Long Mỹ. Trong đó, diện tích nuôi cá thát lát được 89,05 ha tăng 1,97% so cùng kỳ, diện tích nuôi lươn được 21.885,13 m3 tăng 5,98% so cùng kỳ.

Tổng sản lượng thủy sản năm 2021 ước đạt 77.424,90 tấn, đạt 96,78% so kế hoạch năm (80.000 tấn) và tăng 3,15%[8] (bằng 2.365,07 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó:

- Sản lượng thủy sản khai thác ước năm 2021 đạt 2.543,95 tấn, tăng 1,11% (bằng 27,98 tấn) so cùng kỳ.

- Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước năm 2021 đạt 74.880,95 tấn, tăng 3,32% (bằng 2.337,09 tấn) so cùng kỳ. Trong đó sản lượng cá thát lát thu hoạch được 6.242,94 tấn, tăng 0,98% (bằng 60,51 tấn) so cùng kỳ, sản lượng lươn thu hoạch được 762,21 tấn, tăng cao so với cùng kỳ. Hiện tại, hai sản phẩm này đang được người dân mở rộng diện tích vì đem lại thu nhập tương đối ổn định và đây là hai sản phẩm chủ lực của tỉnh.

7. Tình hình sản xuất công nghiệp

Trước tình hình khó khăn bởi dịch Covid-19, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và tỉnh Hậu Giang nói riêng đã nhanh chóng chuyển hướng đi mới, thực hiện nhiều giải pháp để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh như: Đẩy mạnh hoạt động thương mại điện tử; chuyển đổi sản phẩm, dịch vụ chủ lực; tích cực giữ ổn định thị trường truyền thống và tìm kiếm thị trường mới cho nguyên liệu đầu vào cũng như thị trường tiêu thụ đầu ra. Vì vậy, ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã có dấu hiệu phục hồi trở lại.

Dự tính tháng 12/2021, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 4,65% so với tháng trước và tăng 17,92% so với cùng kỳ. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,66% so với tháng trước và tăng 18,03% so với cùng kỳ; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 3,19% so với tháng trước và tăng 1,95% so với cùng kỳ; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 3,92% so với tháng trước và tăng 2,67% so với cùng kỳ năm trước.

Dự tính quý IV/2021, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 50,72% so với quý trước và tăng 12,66% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 51,20% so với quý trước và tăng 12,74% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện bằng 97,88% so với quý trước và tăng 3,38% so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,79% so với quý trước và giảm 0,45% so với cùng kỳ.

- Một số ngành công nghiệp tăng cao so với quý trước và cùng kỳ năm trước như: Chế biến, bảo quản thuỷ sản và các sản phẩm từ thuỷ sản tăng 20,48% so với quý trước và tăng 19,29% so với cùng kỳ; xay xát và sản xuất bột thô tăng 113,65% so với quý trước và tăng 166,54% so với cùng kỳ; sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tăng 87,61% so với quý trước và tăng 102,56% so với cùng kỳ; Sản xuất đồ uống không cồn, nước khoáng tăng 50,21% so với quý trước và tăng 17,02% so với cùng kỳ; Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 20,85% so với quý trước và giảm 42,03% so với cùng kỳ; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 56,16% so với quý trước và tăng 19,03% so với cùng kỳ… Nguyên nhân là do quý IV/2021 các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định trở lại sau đợt tạm ngừng hoạt động trong quý III/2021 (dịch bùng phát mạnh từ tháng 7 đến tháng 9/2021). Vì vậy, Chỉ số sản xuất công nghiệp ước quý IV tăng rất cao so với quý trước và tăng so với cùng kỳ năm trước.

Dự tính năm 2021, Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 5,75% so với cùng kỳ. Trong đó, Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,74%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,89%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,25%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực năm 2021 so với cùng kỳ như: Tôm đông lạnh sản lượng sản xuất được 34.166,33 tấn, tăng 8,17% (Nguyên nhân là do Công ty CP thủy sản Minh Phú Hậu Giang tăng sản lượng trong những tháng cuối năm để kịp hoàn thành các hợp đồng bị trễ do ảnh hưởng dịch bệnh trước đó. Bên cạnh đó, do dịch Covid-19 kéo dài, nên mặt hàng tôm đông lạnh trên thị trường thế giới rất khan hiếm, đây là cơ hội rất tốt để doanh nghiệp tăng sản lượng sản xuất, thâm nhập vào những thị trường mới. Vì vậy, sản lượng sản xuất ngành này tăng so với cùng kỳ năm trước); Gạo đã xay xát toàn bộ hoặc sơ bộ sản lượng sản xuất được 428.584 tấn, tăng 93,72% (Công ty Cp chế biến xuất khẩu gạo Quang Phát Hậu Giang mới đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động ổn định từ đầu năm đến nay, với sản phẩm chính là xay xát gạo thành phẩm có giá trị sản xuất rất cao, nên đã làm tăng đột biến ngành này); Thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, sản lượng sản xuất được 267.526 tấn, tăng 14,92% (do tình hình dịch tả trên lợn cơ bản được kiểm soát, nên các doanh nghiệp trong ngành này tăng sản lượng sản xuất, để phục vụ nhu cầu tái đàn của người chăn nuôi); Bia đóng chai sản xuất được 99,85 triệu lít, tăng 102,76%; Nước có vị hoa quả (cam, táo,…) sản lượng sản xuất được 155,52 triệu lít, tăng 20,24%; Giấy và bìa khác (giấy than, giấy duplex… khổ lớn) được 499.263 tấn tăng 5,30% so với cùng kỳ năm trước. Thuốc trừ côn trùng sản lượng sản xuất được 554,66 tấn, tăng 77,77%; Thuốc diệt nấm sản lượng sản xuất được 894,78 tấn, tăng 63,42%; Thuốc diệt cỏ, Thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hoà sinh trưởng cây trồng sản lượng sản xuất được 214,67 tấn, tăng 91,50%...Ở chiều ngược lại, chỉ số sản xuất (IIP) một số ngành giảm như: Quần áo bảo hộ lao động được 194,41 ngàn cái, giảm 42,82%; Quần áo lót cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc được 1.050 ngàn cái, giảm 15,48%; Giày, dép có đế hoặc mũ bằng da được 13.283,02 ngàn đôi, giảm 20,10%...Nguyên nhân giảm là do các doanh nghiệp thuộc may mặc và da giày sử dụng trên 19.288 lao động, chiếm trên 39,78% lao động trong toàn ngành, nên khi dịch bệnh bùng phát mạnh trong quý III/2021, các doanh nghiệp không đảm bảo được điều khiện vừa phòng, chống dịch vừa sản xuất, nên phải cắt giảm lượng lao động hoặc tạm ngưng hoạt động từ 1 đến 3 tháng. Vì vậy, sản phẩm các ngành trên giảm, còn lại các ngành khác tăng hoặc giảm nhẹ so với cùng kỳ.

Về tình hình sử dụng lao động: Tính đến thời điểm tháng 12/2021, chỉ số sử dụng lao động toàn ngành công nghiệp tăng 7,6% so với tháng trước và giảm 27,48% so với cùng kỳ, tập chung vào một số ngành chủ lực sử dụng nhiều lao động như: Sản xuất chế biến thực phẩm bằng 100,87% so với tháng trước và giảm 4,39% so với cùng kỳ; Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 26% so với tháng trước và giảm 53,82% so với cùng kỳ; Sản xuất trang phục tăng 7,36% so với tháng trước và giảm 17,44% so với cùng kỳ... Nguyên nhân tăng so với tháng trước là do các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới và có các biện pháp vừa phòng chống dịch, nên hầu hết các doanh nghiệp đều đang tuyển dụng lao động để hoạt động nhằm tăng sản lượng sản xuất trong những tháng tiếp theo. Tính chung cả năm 2021 chỉ số sử dụng lao động giảm 20,22%, mặt dù doanh nghiệp đang kêu gọi người lao động trở lại làm việc vì tạm nghỉ do ảnh hưởng dịch bệnh trước đó, nhưng một bộ phận không nhỏ người lao động vẫn chưa sẵn sàng để đi làm lại. Vì vậy, chỉ số sử dụng lao động ước cả năm 2021 giảm so với cùng kỳ năm trước.

Về tình hình tiêu thụ: Tính đến thời điểm tháng 12/2021, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7% so với tháng trước và tăng 22,88% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2021 tăng 12,29% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, tăng chủ yếu ở các nhóm hàng như: Xay xát và sản xuất bột thô tăng 35,89%; Sản xuất thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản tăng 13,07%; sản xuất bia và mạch nha ủ men bia tăng 90,71%; sản xuất sản phẩm từ plastic tăng 8,76%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 34,76% ... Ngoài ra, các sản phẩm có hoạt động xuất khẩu tình hình tiêu thụ đều giảm. Nguyên nhân là do dịch Covid-19 bùng phát, nên tình hình thông quan mất rất nhiều thời gian và hạn chế đi lại của các phương tiện vận tải … đã làm hàng hóa tiêu thụ giảm ở một số ngành so với cùng kỳ.

Về tình hình tồn kho: Tính đến thời điểm 31/12/2021, chỉ số tồn kho tăng 41,34% so với cùng thời điểm năm 2020, trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao hơn mức tăng chung của toàn ngành như: Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 115,17%; sản xuất đồ uống tăng rất cao (do nhà máy tăng sản lượng sản xuất chuẩn bị hàng hóa để phục vụ thị trường trong dịp Noel và Tến dương lịch sắp đến); sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy bằng 632,91%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 19,49% (do các doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng hoạt động không liên tục trong quý III/2021) … Vì vậy, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp tăng so với cùng kỳ năm trước.

8. Hoạt động thương mại, dịch vụ

8.1. Bán lẻ hàng hóa, doanh thu và dịch vụ

Nhìn chung tình hình dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn tỉnh luôn được kiểm soát tốt; cùng với cả nước, Tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt, nghiêm ngặt để kiểm soát dịch bệnh, các hoạt động thương mại, dịch vụ từng bước được nới lỏng hơn trước và đảm bảo thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản đã trở lại hoạt động bình thường mới và thực hiện theo phương châm “An toàn là trên hết” Các cơ sở kinh doanh và doanh nghiệp chủ động thực hiện các biện pháp 5K nhằm từng bước khôi phục sản xuất, vượt qua khó khăn, thách thức, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, sớm phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh. Các đơn vị kinh doanh đẩy mạnh các chương trình khuyến mãi cuối năm nhằm kích cầu tiêu dùng, giải phóng hàng tồn, hoàn thành kế hoạch năm. Hoạt động thương mại, dịch vụ cũng nhanh chóng được phục hồi và phát triển ổn định trở lại, kinh tế của tỉnh ghi nhận các dấu hiệu phát triển tích cực.

Ước tính tháng 12/2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 4.080,94 tỷ đồng (Trong đó, doanh thu chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là 335,76 tỷ đồng), so với thực hiện tháng trước bằng 104,15% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,33%.

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được được 3.160,61 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 104,38% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,47%.

- Doanh thu dịch vụ khác thực hiện được 337,04 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 105,08% và so với cùng kỳ năm trước bằng 108,53%.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 583,28 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 102,37% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,04%.

Ước tính cả năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng và doanh thu hoạt động dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành được 42.349,21 tỷ đồng (Trong đó, doanh thu chi nhánh của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh là 3.482,92 tỷ đồng), so với cùng kỳ năm trước bằng 104,43%, đạt 99,65% kế hoạch.

- Doanh thu bán lẻ hàng hóa thực hiện được 33.161,49 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 106,26%[9], đạt 106,17% kế hoạch.

- Doanh thu dịch vụ khác thực hiện được 3.145,81 tỷ đồng, so với cùng kỳ bằng 92,46%[10], đạt 77,73% kế hoạch.

- Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành thực hiện được 6.041,91 tỷ đồng (Trong đó: Ngành lưu trú, ước tính được 110,32 tỷ đồng; ngành ăn uống, ước tính được 5.931,59 tỷ đồng) so với cùng kỳ năm trước bằng 101,66%, đạt 83,68% kế hoạch.

Hoạt động thương mại, dịch vụ ước tính cả năm 2021 có tốc độ tăng trưởng không cao do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, đặc biệt trong quý III doanh thu toàn ngành giảm 19,39% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu các ngành dịch vụ sụt giảm nhiều do các cơ sở kinh doanh dịch vụ không thiết yếu phải tạm ngừng hoạt động trong thời gian dịch bệnh diễn biến phức tạp. Vì vậy, doanh thu ước cả năm 2021 ngành thương mại, dịch vụ có tăng nhưng mức tăng chưa cao.

8.2. Tình hình xuất nhập khẩu

Ước thực hiện tháng 12/2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp thực hiện được 96,888 triệu USD so với tháng trước bằng 119,97% và so với cùng kỳ năm trước bằng 109,26%.Trong đó:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 60,214 triệu USD, so với tháng trước bằng 136,27%[11] và so với cùng kỳ năm trước bằng 88,30%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 36,674 triệu USD, so với tháng trước bằng 100,28% và so với cùng kỳ năm trước bằng179,05%.

Ước tính quý IV/2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 266,465 triệu USD so với quý trước bằng 139,71%[12] và cùng kỳ năm trước bằng 92,05%. Trong đó:

- Xuất khẩu thực hiện được 159,432 triệu USD, so với với quý trước bằng 138,36% và cùng kỳ năm trước bằng 87,70%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 96,271 triệu USD, so với với quý trước bằng 142,43% và cùng kỳ năm trước bằng 102,64%.

- Uỷ thác xuất khẩu thực hiện được 0,238 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 210,62%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng thực hiện được 10,524 triệu USD so với với quý trước bằng 133,11% và cùng kỳ năm trước bằng 76,29%.

Ước tính năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trực tiếp, uỷ thác và các dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thực hiện được 968,848 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 94,62% và so với kế hoạch năm đạt 89,61%. Trong đó:

- Xuất khẩu ước thực hiện được 566,028 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 92,22% và so với kế hoạch năm đạt 76,97%. Khu vực kinh tế trong nước được 323,441 triệu USD (chiếm tỷ trọng 57,14%), khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được 242,448 triệu USD (chiếm 42,86%). Cơ cấu các nhóm hàng xuất khẩu vẫn ổn định. Nhóm hàng thủy sản, dệt may da giày, sản phẩm giấy các loại là những mặt hàng chủ lực. Về thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất đi được 75 quốc gia và vùng lãnh thổ, Hoa kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất đạt 145,6 triệu USD, giảm 6,41% so với cùng kỳ. Tiếp đến là Trung Quốc 101,7 triệu USD, tăng 20,38%. Các nước khối EU 66,7 triệu USD, giảm 30,3%. Nhật Bản 62 triệu USD, giảm 7,55%.

- Nhập khẩu ước thực hiện được 358,160 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 101,70% và so với kế hoạch năm đạt 127,19%. Khu vực kinh tế trong nước được 216,403 triệu USD (chiếm tỷ trọng 60,42%), khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được 141,757 triệu USD (chiếm 39,58%). Cơ cấu các nhóm hàng nhập khẩu vẫn ổn định. Xăng dầu, các nguyên nhiên vật liệu phục vụ chế biến sản xuất thức ăn gia súc, bao bì giấy thành phẩm, dệt may, da giày là những nhóm hàng được nhập khẩu nhiều. Riêng năm 2021, giá trị nhập khẩu đường mật gỉ chế biến tăng rất cao (72,73%). Tổng thị trường nhập khẩu trong năm 2021 của các doanh nghiệp là hơn 44 quốc gia và vùng lãnh thổ, Hoa kỳ là thị trường nhập khẩu lớn nhất với kim ngạch 80,5 triệu USD, tăng nhẹ 0,82% so với cùng kỳ. Tiếp đến là thị trường Singapore với 42,3 triệu USD, giảm 13,15%. Indonexia đạt 38,5 triệu USD, tăng hơn 600%. Thailand đạt 36,5 triệu USD, tăng hơn 500%. Trung Quốc đạt 36,1 triệu USD, tăng 22%.

Tính chung năm 2021, cán cân thương mại hàng hóa xuất nhập khẩu trực tiếp xuất siêu được gần 208 triệu USD. Trong đó, khu vực các doanh nghiệp trong nước xuất siêu hơn 107 triệu USD, khu vực FDI xuất siêu gần 101 triệu USD.

- Uỷ thác xuất khẩu ước thực hiện được 0,627 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước bằng 32,19% và so với kế hoạch năm đạt 52,25%.

- Dịch vụ đại lý chi trả ngoại tệ của các tổ chức tín dụng ước thực hiện được 44,033 triệu USD so với cùng kỳ năm trước bằng 78,60% và so với kế hoạch năm đạt 69,89%.

8.3. Vận tải hàng hóa và hành khách

Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện trong tháng 12/2021 được 82,84 tỷ đồng, so với tháng trước bằng 114,62% và so với cùng kỳ năm trước bằng 77,19%. Hoạt động vận tải so với tháng trước tăng 14,62%, dịch bệnh từng bước dần được kiểm soát, các cơ sở vận tải trở lại hoạt động bình thường trong trạng thái bình thường mới và dần khôi phục năng lực vận chuyển ở các tuyến nhưng vẫn còn thấp so với thời điểm trước dịch nên giá trị vẫn còn giảm nhiều so với cùng kỳ.

Ước tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi thực hiện quý IV/2021 được 214,76 tỷ đồng so với quý trước bằng 148,27%[13] và so với cùng kỳ năm trước bằng 68,42%. Doanh thu hoạt động vận tải trong quý IV tăng cao so với quý trước.

Ước tính năm 2021, tổng doanh thu vận tải, dịch vụ kho bãi được 935,57 tỷ đồng, bằng 80,87% (giảm 19,13%)[14] so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

- Doanh thu đường bộ thực hiện được 318,57 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 86,06%.

- Doanh thu đường thủy thực hiện được 293,72 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 74,28%.

- Doanh thu hoạt động kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải được 323,28 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước bằng 82,63%.

8.3.1. Vận chuyển, luân chuyển hàng hóa

Ước thực hiện tháng 12, toàn tỉnh vận chuyển được 404,41 nghìn tấn hàng hóa các loại (37.018,50 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 115,39% (111,23%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 78,41% (90,33%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 89,28 nghìn tấn (9.640,70 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 111,11% (110,50%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 124,88% (107,57%).

- Đường sông thực hiện được 315,13 nghìn tấn (27.377,80 nghìn tấn.km) so với thực hiện tháng trước bằng 116,66% (111,49%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 70,93% (85,51%).

Ước thực hiện quý IV/2021, toàn tỉnh vận chuyển được 1.082,25 nghìn tấn hàng hóa các loại (102.802,51 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 186,35% (209,52%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 64,44% (75,97%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 243,22 nghìn tấn (26.615,91 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 139,87% (149,53%) v à so với cùng kỳ năm trước bằng 108,47% (99,17%).

- Đường sông thực hiện được 839,03 nghìn tấn (76.186,60 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 206,21% (243,67%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 57,65% (70,23%).

Ước thực hiện cả năm 2021, toàn tỉnh vận chuyển được 4.952,16 nghìn tấn hàng hóa các loại (424.563,52 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 76,29% (81,44%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 1.016,78 nghìn tấn (103.928,88 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 120,86% (106,33%).

- Đường sông thực hiện được 3.935,38 nghìn tấn (320.634,64 nghìn tấn.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 69,65% (75,70%).

8.3.2. Vận chuyển, luân chuyển hành khách

Ước thực hiện tháng 12, toàn tỉnh thực hiện được 2.179,16 nghìn lượt hành khách (22.993,19 nghìn HK.km), so với tháng trước bằng 114,46% (127,17%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 85,73% (57,66%). Chia ra:

- Đường bộ vận chuyển được 155,90 nghìn lượt hành khách (14.233,01 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 125,34% (140,36%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 51,49% (49,34%).

- Đường sông vận chuyển được 2.023,26 nghìn lượt hành khách (8.760,18 nghìn HK.km), so với thực hiện tháng trước bằng 113,70% (110,33%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 90,36% (79,43%).

Ước thực hiện quý IV/2021, toàn tỉnh vận chuyển được 5.628,44 nghìn tấn hàng hóa các loại (49.535,68 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 185,77% (181,48%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 73,84% (41,34%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 366,20 nghìn tấn (26.379,79 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 168,33% (202,36%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 41,52% (31,21%).

- Đường sông thực hiện được 5.262,24 nghìn tấn (23.155,89 nghìn tấn.km) so với quý trước bằng 187,12% (162,39%) và so với cùng kỳ năm trước bằng 78,07% (65,56%).

Ước thực hiện cả năm 2021, toàn tỉnh vận chuyển được 25.764,89 nghìn lượt hành khách (306.302,67 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 83,65% (66,78%). Chia ra:

- Đường bộ thực hiện được 3.658,47 nghìn lượt hành khách (200.859,25 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 72,94% (62,14%).

- Đường sông thực hiện được 22.106,42 nghìn lượt hành khách (105.443,42 nghìn HK.km) so với cùng kỳ năm trước bằng 85,73% (77,84%) .

9. Các vấn đề về xã hội

9.1. Giáo dục

Để thích ứng với tình hình dịch COVID-19, ngành giáo dục đã kịp thời đưa ra các phương án ứng phó; chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp để vừa đảm bảo an toàn cho học sinh, giáo viên, vừa thực hiện kế hoạch năm học. Kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia năm 2021 tổ chức tại tỉnh Hậu Giang diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy định. Hậu Giang có 6.552 thí sinh đăng ký dự kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia, tăng 999 thí sinh so với cùng kỳ, tỷ lệ tốt nghiệp đạt 98,78%, cao hơn 0,49% so với năm 2020.

Chất lượng nguồn nhân lực ngành giáo dục cũng được nâng lên. Tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp học mầm non đạt chuẩn 95,67%, trên chuẩn 69,94%; tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp tiểu học đạt chuẩn 77,12%, trên chuẩn 0,3%; tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp trung học cơ sở đạt chuẩn 89,48%, trên chuẩn 0,84%; tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên cấp trung học phổ thông đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 18,05%; tỷ lệ cán bộ quản lý, giáo viên trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 16,28%.

Năm học 2021 - 2022, toàn tỉnh huy động được 158.573 học sinh đến trường, đạt 99,61% kế hoạch, tích cực triển khai Chương trình “Sóng và máy tính cho em”. Toàn tỉnh có 320 trường từ mầm non đến trung học phổ thông, giảm 06 trường so với cùng kỳ. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được quan tâm chỉ đạo, đến nay đã có 263/320 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 82,19% tổng số trường.

9.2. Tình hình văn hóa, thể thao

Tập trung tuyên truyền tổ chức hoạt động chào mừng, kỷ niệm các ngày lễ của tỉnh, đất nước. Ngoài ra, còn phối hợp tuyên truyền về cải cách hành chính; tuyên truyền bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; tuyên truyền phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm; Tháng hành động phòng, chống ma túy; phòng chống mưa lũ, thiên tai; tuyên truyền hưởng ứng Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn năm 2021...

Triển khai tuyên truyền các tác phẩm truyền thông về phòng, chống Covid-19 tới các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh và triển khai tuyên truyền về nội quy qui định trong khu cách ly, các bài ca tuyên truyền phòng, chống Covid-19 đến các khu cách ly tập trung trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện maket, in và phát hành tới các ban ngành đoàn thể cấp tỉnh và tới các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh 3.000 tờ tin ảnh, phản ánh các hoạt động “Mừng Đảng quang vinh – Mừng Xuân Tân Sửu 2021” và kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026; phát hành 3 số tranh cổ động (3.000 tờ/số), 6 mẫu áp phích (8.000 tờ/ mẫu) nội dung tuyên truyền về cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 đến các Sở, ban, ngành, các huyện, thị xã thành phố trong tỉnh.

Thực hiện 10.000 tờ rơi, 500 áp phích tuyên truyền phòng chống dịch Covid -19 trong các khu cách ly và các tuyến đường chính của tỉnh.

Hoạt động văn hóa văn nghệ, hội thi, hội diễn:

- Tổ chức đêm văn nghệ chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tại Công viên Xà No, phường 5, thành phố Vị Thanh.

- Tổ chức Hội thi Nghệ thuật quần chúng tỉnh Hậu Giang năm 2021, từ ngày 25 – 28/01/2021 tại Công viên Xà No. Kết quả: Giải nhất huyện Long Mỹ; Giải nhì huyện Vị Thủy; Giải ba thành phố Vị Thanh; Thị xã Long Mỹ; Giải khuyến khích: huyện Phụng Hiệp; huyện Châu Thành; huyện Châu Thành A; thành phố Ngã Bảy. Ngoài ra, Ban Tổ chức còn trao 20 giải sáng tác, dàn dựng, tiết mục và cá nhân có thành tích xuất sắc trong Hội thi.

- Phối hợp tổ chức Hội thi tuyên truyền Cải cách hành chính năm 2021, gắn với tuyên truyền cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 – 2026 có 10 đơn vị tham gia gồm: Liên đoàn Lao động tỉnh; Tỉnh đoàn Hậu Giang và 8 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Kết quả: Giải nhất huyện Vị Thủy; giải nhì huyện Long Mỹ; giải ba huyện Châu Thành A và thành phố Vị Thanh; giải khuyến khích: Tỉnh đoàn Hậu Giang, huyện Phụng Hiệp, thành phố Ngã Bảy, huyện Châu Thành, thị xã Long Mỹ và Liên đoàn Lao động tỉnh Hậu Giang. Ngoài ra, BTC còn trao 03 giải cho 03 phần thi đạt xuất sắc nhất trong Hội thi.

Tổ chức Hội thi Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ tỉnh Hậu Giang năm 2021 theo hình thức thi bằng sản phẩm video gửi Ban tổ chức và quảng bá qua mạng xã hội, từ ngày 21/11 – 22/12/2021.

Triển khai, hướng dẫn và phối hợp các có đơn vị liên quan tổ chức thành công các hoạt động TDTT năm 2021:

- Tổ chức 3 giải cấp tỉnh với 401 vận động viên: Giải vô địch Teakwondo tỉnh Hậu Giang năm 2020. Tham dự giải có 129 vận động viên đến từ 8 đơn vị huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh; Tổ chức giải vô địch Bóng đá nam tỉnh Hậu Giang năm 2020. Tham dự có 162 vận động viên đến từ 9 đơn vị: huyện Phụng Hiệp, thị xã Long Mỹ, thành phố Vị Thanh, huyện Châu Thành, Công an tỉnh, Trại giam Kênh 5, huyện Châu Thành A, huyện Long Mỹ và huyện Vị Thủy; Phối hợp với Liên đoàn Quần vợt tỉnh tổ chức giải Quần vợt “Mừng Đảng quang vinh - mừng Xuân Tân Sửu tỉnh Hậu Giang năm 2021. Tham dự giải có 110 vận động viên.

- Tổ chức giải toàn quốc: 1 giải với gần 700 vận động viên: Giải vô địch Lân Sư Rồng quốc gia lần thứ VIII năm 2021. Tham dự giải có 23 Câu lạc bộ Lân Sư Rồng mạnh đến từ 13 tỉnh, thành phố trong cả nước.

- Phối hợp tổ chức: 02 giải: Hỗ trợ công an tỉnh Hậu Giang tổ chức Đại hội Khỏe “Vì An ninh Tổ quốc” lần thứ V năm 2021; Phối hợp với Liên đoàn Quần vợt hỗ trợ Ngân hàng Agribank Hậu Giang tổ chức giải Quần vợt Agribank mở rộng tỉnh Hậu Giang năm 2021.

- Tham gia giải: Tổng số 19 giải đạt 39 Huy chương các loại

+ Thể thao quần chúng: 01 giải (đạt 01 HCV, 01 HCB, 02 HCĐ)

Tham gia giải toàn quốc: Giải vô địch Lân Sư Rồng quốc gia lần thứ VIII năm 2021 do Hậu Giang đăng cai tổ chức. Kết quả đạt: 01 HCV, 01 HCB, 02 HCĐ. Xếp hạng Nhì toàn đoàn.

+ Thể thao thành tích cao:

Tham dự giải quốc tế: VĐV Judo Nguyễn Tường Vy được triệu tập đội tuyển Việt Nam tham dự Giải vô địch võ thuật thế giới trực tuyến “Online World Martial Arts Masterships 2021”, kết quả đạt 01 HCV.

Tham gia giải toàn quốc: 17 giải (đạt 08 HCV, 12 HCB, 14 HCĐ), gồm:

Giải vô địch Vovinam toàn quốc năm 2020 tại Hà Tĩnh (đạt 01 HCV, 03 HCB, 02 HCĐ); giải Đua thuyền Canoeing vô địch quốc gia năm 2020 tại thành phố Hải Phòng; giải vô địch Điền kinh quốc gia năm 2020 tại Hà Nội (đạt 01 HCV); giải vô địch quốc gia Việt dã leo núi “Chinh phục đỉnh cao Bà Rá” lần thứ 27 năm 2021 tại tỉnh Bình Phước; giải vô địch toàn quốc Marathon và cự ly dài giải Báo Tiền Phong lần thứ 62 năm 2021 tại tỉnh Gia Lai (đạt: Hạng 5 nội dung 42 Km nữ và hạng 5 nội dung 21 Km nam); giải vô địch Judo quốc gia năm 2021 tại Đồng Nai (đạt 01 HCV, 04 HCĐ); giải vô địch Bóng rổ 3x3 quốc gia năm 2021 tại Khánh Hòa; giải vô địch các CLB Vovinam toàn quốc năm 2021 tại Bà Rịa - Vũng Tàu (đạt: 01 HCV, 02 HCB, 04 HCĐ); giải Điền kinh Cúp tốc độ Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh năm 2021 (đạt 02 HCB); giải vô địch các CLB Jujitsu quốc gia năm 2021 tại Đà Nẵng (đạt 01 HCB, 02 HCĐ); giải vô địch Bi sắt quốc gia năm 2021 tại Bà Rịa – Vũng Tàu (đạt 02 HCV); giải Canoeing vô địch CLB qua gia năm 2021 tại Đà Nẵng (đạt 01 HCB, 01 HCĐ); giải vô địch Cử tạ Thanh thiếu niên quốc gia năm 2021 tại Kiên Giang; giải vô địch Karate quốc gia lần thứ XXXI năm 2021 tại Thanh Hóa (đạt 01 HCV); giải Đua thuyền Canoeing vô địch quốc gia năm 2021 tại Hải Phòng (đạt 02 HCB, 01 HCĐ); giải vô địch Điền kinh quốc gia lần thứ 45 năm 2021 tại Hà Nội (đạt 01 HCB); giải vô địch Bóng rổ 3x3 U23 quốc gia năm 2021 tại tỉnh Khánh Hòa (đạt 01 HCV).

9.3. Lao động và an sinh xã hội

Trong năm 2021, Tỉnh đã giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho 16.518/15.000 lao động, đạt 110,12% kế hoạch năm. Ban hành Quyết định hưởng trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp hàng tháng cho 4.838 người với số tiền trên 62 tỷ đồng.

Hiện nay cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong khối hành chính sự nghiệp mức thu nhập bình quân hàng tháng vẫn ổn định so với cùng kỳ năm 2020. Ước bình quân mức thu nhập người/tháng của mỗi lao động trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,9 triệu đồng, thu nhập mỗi lao động trong khu vực nhà nước do trung ương quản lý là 7,5 triệu đồng.

Đối với người lao động thuộc khối doanh nghiệp: Ước thu nhập bình quân người/tháng của công nhân trực tiếp sản xuất thuộc các doanh nghiệp trong khu vực nhà nước do địa phương quản lý là 5,3 triệu đồng và trung ương quản lý là 6,4 triệu đồng.

Đối với lao động ngoài nhà nước, hiện nay thu nhập khá bấp bênh, thậm chí có phần giảm sút do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp. Do đó, để duy trì sản xuất thì các doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu 3 tại chỗ hoặc thực hiện theo sự chỉ đạo của UBND tỉnh “một cung đường hai điểm đến”, bố trí xe đưa rước công nhân, số ít công nhân còn lại do phải chăm lo cho con cái, gia đình nên phải đi xe máy nhưng phải đảm bảo tốt công tác phòng chống dịch theo yêu cầu của doanh nghiệp. Ước tính thu nhập bình quân của lao động trong khối doanh nghiệp tư nhân khoảng 4,7 triệu đồng/người/tháng (giảm khoảng 1,2% so cùng kỳ năm trước). Đối với lao động thuộc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước thu nhập bình quân 6,5 triệu đồng/người/tháng (giảm khoảng 1,8% so cùng kỳ năm trước).

Công tác giảm nghèo: Qua tổng hợp sơ bộ kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn tỉnh năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,46% xuống còn 2,23%, biên độ giảm 1,23%, vượt 0,23% kế hoạch năm; tỷ lệ hộ cận nghèo giảm từ 3,56% xuống còn 2,47%, biên độ giảm 1,09%.

Công tác bảo trợ xã hội: Thực hiện trợ cấp hàng tháng cho 409.501 lượt đối tượng bảo trợ xã hội với số tiền 181,35 tỷ đồng. Hỗ trợ mai táng phí cho 172 trường hợp với số tiền 1,24 tỷ đồng; hỗ trợ đột xuất 18 trường hợp với kinh phí 384 triệu đồng.

Công tác thực hiện chính sách Người có công luôn được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo sâu sát, nhất là việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định mới về chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, công tác rà soát thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, nhằm xoa dịu nỗi đau, khích lệ tinh thần và ổn định cuộc sống của người dân. Theo báo cáo của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, trong năm Tỉnh đã tổ chức các hoạt động đạt kết quả như sau:

- Tiếp nhận 1.870 hồ sơ các loại. Đã xét giải quyết 1.808 hồ sơ. Trong đó, đạt 1.577 hồ sơ, không đạt 231 hồ sơ. Còn 26 hồ sơ đang trong thời gian xem xét, giải quyết.

- Hoàn thành việc lấy 1.235 mẫu sinh phẩm hài cốt liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ thành phố Ngã Bảy. Đồng thời phối hợp với Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Hậu Giang thực hiện kiểm dịch các mẫu sinh phẩm để tiến hành bàn giao cho Viện Công nghệ sinh học, phục vụ công tác giám định danh tính hài cốt liệt sĩ.

- In ấn 6.200 cuốn tài liệu tuyên truyền các chế độ chính sách ưu đãi người có công với cách mạng.

- Đề nghị Công ty TNHH MTV Xổ số Kiến thiết Hậu Giang nhận chăm sóc, phụng dưỡng 03 Mẹ Việt Nam anh hùng đến cuối đời; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hậu Giang hỗ trợ xây dựng 06 căn nhà tình nghĩa cho người có công với cách mạng và thân nhân liệt sĩ tại các huyện Phụng Hiệp, Vị Thủy, Long Mỹ, Châu Thành và thành phố Vị Thanh.

- Thẩm định danh sách người có công và thân nhân liệt sĩ đến niên hạn điều dưỡng năm 2022 và bổ sung các đối tượng đủ điều kiện nhận quà của Chủ tịch nước nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022.

- Tham mưu UBND tỉnh trình Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ cấp Bằng “Tổ quốc ghi công” đối với 01 trường hợp.

Về công tác quản lý đối tượng: tổng số người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý trên địa bàn tỉnh tại thời điểm báo cáo là 1.975 người; số người nghiện đang có mặt tại cơ sở cai nghiện là 172 người.

9.4. Y tế

Theo báo cáo của Sở Y tế:

Tỷ lệ Trạm y tế xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế đạt 100%; có 8,66 bác sĩ trên 10.000 người dân, tăng 0,33 bác sĩ so với cùng kỳ; có 35,4 giường bệnh trên 10.000 người dân, tăng 1,26 giường so với cùng kỳ; tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn 10,69%; giảm 1,3% so với cùng kỳ; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế cuối năm 2021 đạt 91,61% dân số, tăng 0,28% so với năm 2020.

Có 55 ca mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 98 ca so với cùng kỳ; bệnh tay chân miệng có 388 ca, tăng 66 ca so với cùng kỳ.

Số trẻ dưới 1 tuổi được miễn dịch là 11.037 trẻ, đạt 97,5%; tiêm sởi mũi 2 là 11.029 trẻ, đạt 96,2%; tiêm ngừa uốn ván trên thai phụ (VAT2 (+)TP) là 10.379 thai phụ, đạt 91,7%; Số nhiễm HIV là 67 ca, giảm 7 ca so với cùng kỳ; số bệnh nhân AIDS là 8 ca, giảm 13 ca so với cùng kỳ; số bệnh nhân tử vong do AIDS là 10 ca, giảm 09 ca so với cùng kỳ.

Kết quả thực hiện khám chữa bệnh là 1.538.101 lượt, đạt 81,29% kế hoạch, giảm 23,26% so với cùng kỳ. Tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 83.947 lượt, đạt 62,13% kế hoạch, giảm 21,31% so với cùng kỳ. Ngày điều trị trung bình là 5,92 ngày, tăng 0,05 ngày so với cùng kỳ. Tổng số tai nạn ngộ độc, chấn thương là 5.098, giảm 4.860 trường hợp so với cùng kỳ.

Chữa bệnh bằng Y học dân tộc: Tổng số khám bệnh là 231.419 lượt, chiếm tỷ lệ 15,07% tổng số lượt khám chữa bệnh chung, giảm 12,02 % so với cùng kỳ.

Tình hình dịch Covid-19 (tính đến ngày 23/12/2021) như sau:

Tính từ đầu đợt dịch (ngày 08/7/2021) đến nay tỉnh Hậu Giang đã ghi nhận tổng số 13.217 ca mắc (đã được Bộ Y tế công bố 11.862 ca); trong đó: có 01 ca mắc là người về từ Campuchia; 1.188 ca mắc là người về từ ngoài tỉnh; 3.247 ca mắc là F1 đã được cách ly tập trung, 8.079 ca mắc cộng đồng và 702 ca mắc trong khu vực phong tỏa do có ổ dịch cộng đồng.

Tình hình điều trị bệnh COVID-19: Tổng số ca được điều trị khỏi: 10.165 ca; số ca tử vong tại tỉnh: 50 ca.

Tình hình tiêm ngừa vắc xin phòng COVID-19: Tỉnh Hậu Giang, tiếp tục thực hiện Chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 cho người dân, trong đó:

+ Độ tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi, tính đến ngày 23/12/2021, đã tiêm được 142.851 liều (73.021 người/ 70.423 người, đạt tỷ lệ: 103,69%; trong đó: 69.830 người đã tiêm 2 mũi; 3.191 người mới tiêm mũi 1).

+ Độ tuổi từ 18 tuổi trở lên, đến ngày 23/12/2021 đã tiêm được 1.015.964 liều (525.143 người/ 536.163 người, đạt tỷ lệ 97,94%; trong đó 490.821 người đã tiêm 2 mũi; 34.322 người mới tiêm mũi 1).

Tính đến thời điểm hiện tại tổng số người được tiêm vắc xin là 598.164 người (trong đó: 560.651 người đã tiêm đủ 2 mũi, 37.513 người mới tiêm 1 mũi), đạt tỷ lệ 98,61% trên tổng dân số tỉnh Hậu Giang từ 12 tuổi trở lên (606.586 người).

Ngoài tra, Tỉnh đang triển khai tiêm vắc xin mũi 3 phòng COVID-19 cho lực lượng tuyến đầu chống dịch hoặc làm nhiệm vụ ở những khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao đã hoàn thành tiêm ngừa mũi thứ 2 đủ thời gian, đến ngày 23/12/2021 đã tiêm được 4.762 liều.

9.5. Tình hình thực hiện an toàn giao thông

Trong tháng 12/2021, Theo số liệu của Ban An toàn giao thông trên địa bàn tỉnh xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, làm chết 21 người và làm bị thương 9 người. So với tháng trước tăng 16 vụ, số người chết tăng 13 người và số người bị thương tăng 06 người. So với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 01, số người chết tăng 05 người và số người bị thương giảm 04 người; trong đó tai nạn giao thông đường thủy tăng 01 vụ.

Trong năm 2021 (từ ngày 15/12/2020 đến ngày 14/12/2021), toàn tỉnh xảy ra 77 vụ tai nạn giao thông, làm chết 65 người, bị thương 27 người. So với cùng kỳ năm trước số vụ giảm 12, số người chết tương đương, số người bị thương giảm 06 người. Trong đó tai nạn giao thông đường thủy xảy ra 02 vụ, làm chết 01 người so với cùng kỳ năm trước số vụ tương đương, số người chết giảm 01 người.

9.6. Tình hình môi trường, thiên tai và phòng chống cháy, nổ

Ngành chức năng tiếp tục giám sát các cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở có thông tin phản ánh để kịp thời xử lý theo quy định. Tính đến tháng 12/2021, ngành chức năng phát hiện 51 vụ, xử lý 51 vụ với số tiền xử phạt là 718 triệu đồng, chủ yếu là vi phạm về an toàn thực phẩm, xả nước thải, khí thải vượt chuẩn cho phép.

Về tình hình thiên tai:

- Sạt lở: 30 điểm (huyện Châu Thành 27 điểm; thành phố Ngã Bảy 03 điểm), so với cùng kỳ giảm 17 điểm.

Tổng chiều dài sạt lở 737 m, diện tích mất đất 4.457 m2; ước tổng thiệt hại 2.454 triệu đồng; so với cùng kỳ giảm 507,5 m; diện tích giảm 1.497,5 m2; ước thiệt hại giảm 123 triệu đồng.

- Dông lốc: Sập và hư hại 80 căn nhà, ước thiệt hại 3.044,5 triệu đồng, so với cùng kỳ thiệt hại năm 2020 giảm 1.415 triệu đồng.

Ước tổng thiệt hại do thiên tai từ đầu năm đến nay là: 12.159,82 triệu đồng; so với cùng kỳ thiệt hại năm 2020 giảm 19.435,34 triệu đồng. Do thời tiết năm 2021 thuận lợi hơn so với năm 2020, bên cạnh đó cũng nhờ có sự chuẩn bị chu đáo các biện pháp phòng chống thiên tai từ các cấp, các ngành, của Ban phòng chống thiên tai và của người dân nên phần nào đã làm giảm tối đa thiệt hại do thiên gây ra trên địa bàn tỉnh. Ngành chức năng tiếp tục theo dõi diễn biến của thời tiết để có những biện pháp ứng phó kịp thời.

10. Đề xuất giải pháp

Tình hình dịch Covid-19 đang diễn biến rất phức tạp. Trong điều kiện cho việc nới lỏng các biện pháp giãn cách ở một số địa phương, tạo tiền đề để mở cửa lại nền kinh tế và thích ứng, dần chuyển sang trạng thái bình thường mới. Trong thời gian tới, các cấp, các ngành, các địa phương không được lơ là, chủ quan, cần tiếp tục đề cao trách nhiệm, bám sát tình hình, chủ động, tập trung triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp sau:

- Triển khai hiệu quả công tác phòng, chống dịch COVID-19, tiếp tục tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 cho Nhân dân để đẩy nhanh độ bao phủ vắc xin phòng COVID-19. Nâng cao khả năng phòng ngừa, chống chịu và khắc phục rủi ro của người dân; phát huy vai trò của mạng lưới y tế cơ sở, tổ y tế lưu động, tổ COVID-19 cộng đồng trong phòng, chống dịch COVID-19.

- Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, xây dựng lộ trình mở từng bước để kiểm tra tính an toàn, điều chỉnh dần cho phù hợp theo nguyên tắc trao quyền tự chủ cho đơn vị sản xuất, kinh doanh triển khai mô hình hoạt động phù hợp đặc thù của đơn vị và chịu trách nhiệm về các yêu cầu an toàn phòng, chống dịch COVID-19.

- Tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; chuyển mạnh từ phát triển theo chiều rộng, tự phát sang phát triển có định hướng, tập trung, nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Xây dựng 5 nông sản chủ lực, có thế mạnh, có giá trị kinh tế cao, tiêu thụ ở ba thị trường: tại chỗ, vùng miền và xuất khẩu.

- Phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Khuyến khích nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu…

- Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu từng địa bàn; chuyển đổi một phần đất trồng lúa sang cây trồng khác có hiệu quả, cao hơn hoặc làm đất chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn. Hỗ trợ phát triển chăn nuôi trang trại, gia trại hiệu quả cao.

- Tập trung nguồn lực nhanh chóng triển khai các giải pháp đồng bộ cho công tác tạo quỹ đất sạch cho phát triển công nghiệp; đầu tư cơ sở hạ tầng khu công nghiệp.

- Triển khai chương trình thu hút, phát triển doanh nghiệp đầu tư mới là thành tố quan trọng trong phát triển công nghiệp. Lấy năm 2022 là năm doanh nghiệp tỉnh Hậu Giang, với quan điểm “Doanh nghiệp đến, Hậu Giang vui”. Xây dựng danh mục ưu tiên doanh nghiệp đầu tư với mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư.

- Phát triển một số ngành công nghiệp nền tảng… Xây dựng chính sách, đặc biệt là hệ thống văn bản để làm cơ sở thúc đẩy hoạt động phát triển công nghiệp. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn…Thúc đẩy tiến độ các dự án công nghiệp lớn, có tác động lan tỏa.

- Tập trung nguồn lực để chuẩn bị kết nối tốt nhất vào hệ thống đường cao tốc Quốc gia. Các dự án kết nối vùng và liên vùng; kết nối đồng bộ hệ thống giao thông với các khu, cụm công nghiệp.

- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại để nhiều sản phẩm chủ lực của tỉnh có thêm thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. Đưa sản phẩm nông, thủy sản của tỉnh tiếp cận thị trường nước ngoài. Tập trung phát triển những sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quy định, có tem truy xuất nguồn gốc.

- Phát triển nâng chất hệ thống chợ, kêu gọi đầu tư xây dựng các chợ đầu mối về hàng nông sản của tỉnh, phát triển mạng lưới dịch vụ ở nông thôn, tiếp tục triển khai hệ thống thương mại điện tử. Tổ chức các Phiên hàng Việt về nông thôn. Tổ chức Đoàn giao thương, xúc tiến thương mại giữa tỉnh Hậu Giang với các tỉnh, thành phố đã có mối quan hệ hợp tác./.

[1]Khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng cao so cùng kỳ chủ yếu do có sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm có giá trị thấp sang các sản phẩm có giá trị cao hơn, cũng như các sản phẩm có giá trị cao trong năm nay có tăng trưởng tốt.

[2]Đóng góp nhiều nhất trong tăng trưởng sản xuất công nghiệp là ngành sản xuất, chế biến thực phẩm chiếm cơ cấu 21,27% trong VA ngành công nghiệp, với tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm 5,83%; sản xuất đồ uống chiếm 15,63%, tăng 32,41%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy chiếm 13,48%, tăng 4,1%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu chiếm 18,76%, tăng 2%;...

[3] Khu vực thương mại và dịch vụ có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng của cùng kỳ (cùng kỳ là 1,41%), do dịch Covid 19 tác động rất nhiều đến tình hình sản xuất kinh doanh.

[4]Nguyên nhân là do trong bối cảnh dịch Covid-19 đã bùng phát mạnh trong quý III/2021, nên các công trình xây dựng nhà ở của hộ dân cư đã khởi công trong quý III/2021 đến quý IV/2021 mới hoàn thành..

[5]Tăng chủ yếu ở các dự án công trình xây dựng nhà để ở của hộ dân cư, do loại công trình này có thời gian khởi công và hoàn thành ngắn, thủ tục thanh toán hợp đồng đơn giản, nên khi dịch bệnh diễn biến phức tạp nhưng các dự án công trình xây dựng nhà đều hoàn thành đúng tiến độ, do đó giá trị sản xuất tăng cao so với cùng kỳ.

[6]Nguyên nhân tổng đàn heo trên địa bàn tăng là do tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, công tác phòng chống dịch bệnh được quản lý chặt chẽ, những hộ nuôi nhỏ lẻ bắt đầu tái đàn trở lại, những hộ nuôi quy mô gia trại, trang trại tiếp tục sản xuất, tái đàn và mở rộng quy mô chuồng trại. Từ đó tổng đàn từng bước được khôi phục góp phần tăng về số lượng và sản lượng.

[7]Tập trung tăng chủ yếu ở diện tích nuôi các loại cá ruộng và cá khác nuôi ao mương vườn, mô hình nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa.

[8]Nguyên nhân tăng so với cùng kỳ là do thời tiết tương đối thuận lợi, dịch bệnh trên thủy sản ít xảy ra, mô hình nuôi luân canh trong ruộng lúa và nuôi lồng bè, bể bồn đem lại thêm thu nhập cho người dân. Tình hình dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến hết sức phức tạp, giá thức ăn tăng, chi phí sản xuất tăng cao, công tác vận chuyển và tiêu thụ chưa thuận lợi, hiện đang vào thời điểm thu hoạch nhưng người nuôi vẫn chưa thu hoạch hết các diện tích hiện có, giá bán cũng không cao nên người nuôi đang chờ giá cao để bán, do đó diện tích và sản lượng thu hoạch cũng bị ảnh hưởng và không đạt so với kế hoạch.

[9]Mặc dù ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng các nhóm hàng hóa thiết yếu chiếm tỷ trọng lớn vẫn giữ tốc độ tăng ổn định như: nhóm lương thực, thực phẩm tăng 6,46%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 4,83%; nhómgỗ, vật liệu xây dựng tăng 7,70%; nhóm xăng, dầu tăng 12,20%; nhóm đá quý, kim loại quý và sảm phẩm tăng 7,62% so cùng kỳ …làm cho doanh thu bán lẻ hàng hóa vẫn giữ được mức tăng khá ổn định.

[10]Doanh thu cả năm các ngành dịch vụ sụt giảm khá mạnh so với cùng kỳ năm trước là do ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh COVID-19 nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ không thiết yếu phải tạm dừng hoạt động trong thời gian dài; đặc biệt là ngành vui chơi giải trí trong đó có hoạt động xổ số tạm ngưng hoạt động gần 3 tháng nên kéo doanh thu các ngành dịch vụ giảm sâu.

[11]Dịp cuối năm là thời điểm ở các thị trường nhập khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp diễn ra nhiều hoạt động lễ hội lớn (lễ giáng sinh). Nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng thực phẩm thủy hải sản, nông sản và các mặt hàng dệt may, da giày của người tiêu dùng ở các nước nhập khẩu sẽ tăng nhiều. Do đó, dự đoán trong tháng 12 giá trị xuất khẩu sẽ tăng trở lại. Dự báo nhóm hàng xuất khẩu da giày được kỳ vọng sẽ tăng mạnh, do dịch bệnh tại doanh nghiệp cơ bản được kiểm soát và trong tháng 11 đã thực hiện nhập khẩu các nguyên liệu về khôi phục sản xuất trong thời gian tới.

[12]Dịch bệnh được kiểm soát các biện pháp phòng chống dịch được nới lỏng. Các doanh nghiệp tổ chức phục hồi sản xuất và tất toán được nhiều hợp đồng. Do đó, hoạt động xuất nhập khẩu trong quý IV có nhiều khởi sắc và tăng trưởng cao so với quý III.

[13]Nguyên nhân do dịch bệnh được kiểm soát, các biện pháp áp đặt phong tỏa được nới lỏng, các cơ sở vận chuyển hàng hóa và hành khách được phép hoạt động trở lại hoàn toàn và chấp hành các điều kiện phòng chống dịch.

[14]Tình hình dịch bệnh bùng phát mạnh trong quý III /2021 đã tác động mạnh mẽ đến tất cả các hoạt động vận chuyển hàng hóa và hành khách trên địa bàn ở cả đường bộ lẫn đường thủy. Vì vậy, tính chung đến tháng 12 năm 2021 hầu hết các chỉ tiêu vận tải về vận chuyển và luân chuyển đều có sự sụt giảm so với cùng kỳ, trong đó hoạt động hành khách đường bộ chịu ảnh hưởng nặng và có mức sụt giảm nhiều nhất.


File đính kèm:
Bao_cao_KTXH_2021.docx
So_lieu_KTXH_2021.xlsx

Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang

    Tổng số lượt xem: 571
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)