Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/07/2006-10:03:00 AM
Tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2006

1. Tình hình chung:

Tháng 7 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 44.264 tỷ đồng tăng 1,8% so với tháng 6 và tăng 18,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,4%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 24,5%, khu vực có vốn ĐTNN tăng 21,7%.

Tính chung 7 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 286.058 tỷ đồng tăng 16,5% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8% (trong đó Tcty dầu khí giảm 4%, các ngành khác tăng 24,2%).

Bảy tháng đầu năm 2006, một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (15,5%) là: than sạch tăng 24,6%, vải lụa thành phẩm tăng 17,5%, quần áo may sẵn tăng 22,3%, thuốc trừ sâu tăng 19,9%, thuốc ống các loại tăng 23,5%, sứ vệ sinh tăng 18,5%, thép cán tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước.

Nhiều sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: gas hoá lỏng tăng 3,7%, sữa hộp tăng 5,4%, đường mật các loại tăng 1%, bia tăng 10%, bột ngọt tăng 2,1%, thuỷ sản chế biến tăng 13,5%, giấy bìa các loại tăng 12,5%, quần áo dệt kim tăng 14,1%, xà phòng các loại tăng 11,5%, xi măng tăng 13,5%, gạch xây tăng 6,4%, gạch lát tăng 8,2%, động cơ diezen tăng 10,1%, động cơ điện tăng 10,2%, ắc quy tăng 3,5%, xe máy các loại tăng 5,1%, xe đạp đạt 14,5%, điện phát ra tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước.

Nhiều sản phẩm giảm so với cùng kỳ gồm: dầu thô khai thác đạt 94,6%, khí đốt thiên nhiên 98,8%, thuốc lá bao đạt 94,2%, xút NaOH đạt 97,4%, phân hoá học đạt 91,4%, thuốc viên các loại đạt 99,5%, máy công cụ đạt 76,6%, máy biến thế đạt 63,2%, quạt điện dân dụng đạt 92,3%, tivi các loại đạt 94,5%, ôtô các loại đạt 60,4% so với cùng kỳ năm trước.

Theo vùng, lãnh thổ một số địa phương (chiếm 8/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn) duy trì được mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch của toàn ngành (15,5%) là Hà nội 17,7%, Hải phòng 19,1%, Hà Tây 25,1%, Hải dương 25,7%, Quảng Ninh 17,3%, Bình Dương 19,1%, Đồng Nai 19,8%, và Cần Thơ 22,1%. Một số địa phương (chiếm 7/15 tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn) có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành là Vĩnh Phúc 12,2%, Phú Thọ 13,9%, Thanh hoá 12,5%, Đà Nẵng 11,8%, Khánh hoà 15,4%, Tp. Hồ Chí Minh 13,5%, Bà rịa – Vũng Tàu 9,2%.

2. Một số nhận xét về tình hình sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2006:

Với các khó khăn về giá nguyên nhiên liệu tăng, công nghiệp 7 tháng đầu năm 2006 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 16,5% cao hơn so với kế hoạch cả năm của toàn ngành (15,5%).

- Về cơ cấu sản phẩm được thống kê có 7/36 sản phẩm có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch chung toàn ngành, 18/36 sản phẩm có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành và 11/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ.

Than sạch khai thác, các sản phẩm dệt may tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, thép cán xây dựng sau thời kỳ đầu năm có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành, nay đã đạt mức tăng cao hơn kế hoạch toàn ngành. Một số sản phẩm quan trọng với tỷ trọng lớn tiếp tục có mức tăng trưởng thấp hoặc giảm như điện sản xuất, dầu thô, một số sản phẩm gia công cơ khí và điện tử.

Việc tăng trưởng toàn ngành ở mức 16,5% có thể lý giải do mức tăng cao tập trung ở các sản phẩm nằm ngoài danh mục được thống kê ở trên như sản phẩm gỗ, da giầy, các sản phẩm điện tử như đầu video, DVD, máy lạnh, máy giặt, các sản phẩm cơ khí lớn như đóng tàu, khung nhà thép, thép lá, thép mạ v.v..Ngoài ra một số sản phẩm chế biến sâu khoáng sản như kẽm thỏi (Nhà máy kẽm điện phân Thái nguyên), tinh quặng đồng (Tổ hợp đồng Sin Quyền – Lào Cai) bắt đầu đi vào sản xuất từ quý II/2006.

Điện sản xuất mặc dù có mức tăng trưởng thấp nhưng đã cơ bản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Điều đó cho thấy nhu cầu điện 6 tháng đầu năm không cao, và việc áp dụng các biện pháp tiết kiệm điện. Về cơ cấu điện sản xuất thuộc các thành phần kinh tế khác tiếp tục duy trì ở mức cao trên 22%.

Trong những tháng đầu năm 2006, nhiều khách hàng có nhu cầu mua xe có tâm lý chờ đợi việc áp dụng chính sách nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng với giá cạnh tranh hơn so với xe ôtô sản xuất/lắp ráp trong nước khiến thị trường ôtô giảm sút dẫn tới sản lượng xe ôtô các loại chỉ đạt 60,4% so với cùng kỳ. Với chính sách thuế và giá cả xe sản xuất trong nước như hiện nay thì ôtô là một mặt hàng xa xỉ phẩm đối với người dân Việt nam, dẫn đến cung cầu chỉ gặp nhau ở mức sản lượng thấp.

- Về tăng trưởng của các địa phương là khá tốt với 8/15 địa phương được thống kê có mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành, 7/15 địa phương có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Trong đó có các tỉnh chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành như Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa – Vũng tàu tiếp tục có mức tăng thấp hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành.

3. Tình hình sản xuất 7 tháng một số ngành, sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn so cùng kỳ:

- Than sạch khai thác đạt 22,5 triệu tấn, tăng 24,6%.
- Dầu thô khai thác đạt 10 triệu tấn, giảm 5,4%
- Khí đốt thiên nhiên đạt 4 tỷ m3 giảm 1,2% so cùng kỳ.
- Bia đạt 864 triệu lít, tăng 10%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 332 triệu m2, tăng 17,5%
- Quần áo dệt kim đạt 84,4 triệu cái, tăng 14,1%
- Quần áo may sẵn đạt 675 triệu cái, tăng 22,3% do kim ngạch xuất khẩu đang có mức tăng trưởng tốt.
- Giấy bìa đạt 535,8 nghìn tấn, tăng 12,5%.
- Phân hoá học đạt 1190 ngàn tấn, giảm 8,6% do nhà máy đạm Phú Mỹ vẫn chưa khắc phục được sự cố.
- Xi măng đạt 18,2 triệu tấn, tăng 13,5%.
- Thép cán đạt gần 2,2 triệu tấn tăng 16,1%.

4. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:

a. Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 7 tháng đầu năm ước đạt 22,3 tỷ USD tăng 25,7% so cùng kỳ và đạt 59% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp ước đạt 16 tỷ USD.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu lớn so cùng kỳ như: dầu thô đạt 9,6 triệu tấn giảm 6%, than đá đạt 15,8 triệu tấn tăng 67%, hàng dệt may đạt 3,36 tỷ USD tăng 32%, hàng giày dép đạt trên 2 tỷ USD tăng 22%, sản phẩm gỗ đạt 1 tỷ USD tăng 25,4%; hàng điện tử, linh kiện và vi tính đạt 900 triệu USD tăng 20%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù đạt 301 triệu USD tăng 8,9%, dây và cáp điện đạt 366 triệu USD tăng 37,6%, sản phẩm nhựa đạt 253 triệu USD tăng 30,5%, xe đạp và phụ tùng đạt 79 triệu USD giảm 18%.
Các mặt hàng xuất khẩu hầu hết đều tăng khá đặc biệt than đá có mức tăng cao (cần có chính sách đánh thuế xuất khẩu để hạn chế, dành than cho các nhà máy nhiệt điện than sắp đi vào hoạt động), dầu thô khai thác tiếp tục giảm do trữ lượng dầu tại các mỏ có hạn và quy trình kỹ thuật khai thác đã tới giới hạn, tuy nhiên giá bán dầu đang cao nên về kim ngạch xuất khẩu (quy ra giá trị) vẫn tăng.

b. Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 7 tháng đầu năm ước đạt 24,8 tỷ USD tăng 16,5% so cùng kỳ, trong đó chủ yếu là máy móc và vật tư phục vụ công nghiệp.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so cùng kỳ như: ôtô nguyên chiếc đạt 7431 chiếc giảm 37%, linh kiện ôtô và phụ tùng đạt 238 triệu USD giảm 46% do lượng xe lắp ráp trong nước giảm mạnh, linh kiện xe máy CKD và IKD đạt 249 triệu USD giảm 10,6%, xăng dầu các loại đạt 6,8 triệu tấn giảm 3%, phân bón các loại đạt 1,9 triệu tấn tăng 18,4% (trong đó phân urê đạt 395 nghìn tấn giảm 20,7%), thép các loại đạt 3,3 triệu tấn tăng 3,9% (trong đó phôi thép đạt 1176 nghìn tấn giảm 10,5%), giấy các loại đạt 422 nghìn tấn tăng 31,5%, bông các loại đạt 102 nghìn tấn tăng 4,7%, sợi các loại đạt 191 nghìn tấn tăng 59%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 3,4 tỷ USD tăng 16,3%, tân dược đạt 302 triệu USD tăng 10,7%, hoá chất các loại đạt 553 triệu USD tăng 13,1%, chất dẻo nguyên liệu đạt 748 nghìn tấn tăng 14%, vải đạt 1,7 tỷ USD tăng 32,1%, nguyên phụ liệu dệt may da đạt 1,2 tỷ USD giảm 6%, máy tính và linh kiện đạt trên 1 tỷ USD tăng 18,8%.

Vụ Kinh tế công nghiệp

    Tổng số lượt xem: 1232
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)