Skip Ribbon Commands
Skip to main content
Ngày 24/04/2006-09:38:00 AM
Tình hình sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2006
1. Tình hình chung:

Tháng 4 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 43.064 tỷ đồng tăng 2,8% so với tháng 3 và tăng 17,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 12,1%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 20,1%, khu vực có vốn ĐTNN tăng 20,8%.

Tính chung 4 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 162.754 tỷ đồng tăng 15,6% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,3%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18% (trong đó Tcty dầu khí giảm 2,5%, các ngành khác tăng 23,5%).

Bốn tháng đầu năm 2006 một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (15,5%) là than sạch tăng 18,6%, vải lụa thành phẩm 45,9%, quần áo dệt kim 23,2%, quần áo may sẵn 26,2%, thuốc trừ sâu 21,3%, thuốc ống 18,5%, sứ vệ sinh 27,4% so cùng kỳ năm ngoái.

Nhiều sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: điện sản xuất tăng 14,5%, khí đốt thiên nhiên 0,6%, ga hoá lỏng 2,8%, thép cán 12,5%, xi măng 9,8%, gạch xây 9,2%, gạch lát 0,7%, sữa hộp 9,9%, bia 12,5%, thuỷ sản chế biến 14%, bột ngọt 6,5%, giấy bìa các loại 6,2%, phân hoá học 2,9%, xà phòng các loại 13,2%, ắc quy 13,3%, động cơ điện tăng 11,8%, động cơ diezen 0,7%, xe máy các loại tăng 5,9% so cùng kỳ.

Nhiều sản phẩm giảm so với cùng kỳ gồm: dầu thô đạt 96,6%, xút NaOH 94,4%, thuốc lá bao 87,7%, đường mật 96,9%, thuốc viên các loại 91,9%, máy biến thế 71,2%, máy công cụ 84,6%, ắc quy 13,3%, ôtô các loại 60,4%, tivi các loại đạt 92,7%, xe đạp đạt 85,9% so cùng kỳ.

Theo vùng, lãnh thổ nhiều địa phương (chiếm 10/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn) duy trì được mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch của toàn ngành (15,5%) là Hà nội 17%, Hải phòng 19,5%, Hà Tây 20,1%, Hải dương 18,9%, Quảng Ninh 15,6%, Khánh hoà 15,6%, Bình Dương 18,7%, Đồng Nai 17,5%, Bà rịa – Vũng Tàu 17,5% và Cần Thơ 21,2%. Một số địa phương (chiếm 5/15 tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn) có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành là Vĩnh Phúc 7,1%, Phú Thọ 11,9%, Thanh hoá 8,2%, Đà Nẵng 11,5%, Tp. Hồ Chí Minh 13%.

2. Một số nhận xét về tình hình sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2006:

Như vậy công nghiệp 4 tháng đầu năm 2006 đã có tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 15,6% cao hơn so với kế hoạch cả năm của toàn ngành (15,5%) sau khi quý I chỉ đạt mức tăng 14,7%.

- Về cơ cấu sản phẩm được thống kê có 7/36 sản phẩm có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch chung toàn ngành, 18/36 sản phẩm có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành và 11/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ. Một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong toàn ngành có mức tăng thấp như so kế hoạch toàn ngành như điện sản xuất, khí đốt thiên nhiên, xi măng và gạch, thép, phân hoá học; các sản phẩm giảm như dầu thô, ôtô, một số sản phẩm gia công cơ khí và điện tử. Riêng sản phẩm ôtô có mức tăng thấp có thể được lý giải là do chính sách cho nhập khẩu xe cũ áp dụng từ 1/5/2006 gây tâm lý chờ đợi mua xe nhập khẩu với giá rẻ đồng thời xe sản xuất trong nước cũng sẽ giảm giá trong thời gian tới. Việc tăng trưởng toàn ngành ở mức 15,7% chỉ có thể lý giải do mức tăng cao tập trung ở các sản phẩm nằm ngoài danh mục được thống kê ở trên như sản phẩm gỗ, các sản phẩm điện tử như đầu video, DVD, máy lạnh, máy giặt,..., các sản phẩm cơ khí lớn như đóng tàu, khung nhà thép, thép lá, thép mạ, ....

- Về tăng trưởng của các địa phương là khá tốt với 10/15 địa phương được thống kê có mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành, 5/15 địa phương có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Trong đó Tp. Hồ Chí Minh có mức tăng trưởng 13% khá hơn so với mức tăng 11,4% của quý I năm nay.

- Về giá các sản phẩm công nghiệp chính đang có xu hướng tăng lên trong thời gian tới như điện, xi măng, than sẽ có thể ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này và có thể tác động tiêu cực đến mức tăng trưởng chung ngành công nghiệp. Giá dầu thô thế giới đang duy trì ở mức cao trên 70 USD/thùng có thể sẽ làm giá xăng dầu và khí hoá lỏng nhập khẩu.

3. Tình hình sản xuất 4 tháng một số ngành, sản phẩm lớn so cùng kỳ:

- Than sạch khai thác đạt 12,2 triệu tấn tăng 18,6%.

- Dầu thô khai thác đạt 5,8 triệu tấn giảm 3,4%, khí đạt 2,27 tỷ m3 tăng 0,6%.

- Bia đạt 413 triệu lít tăng 12,5%.

- Vải lụa thành phẩm đạt 213 triệu m tăng 45,9%, quần áo dệt kim đạt 49,3 triệu cái tăng 23,2%, quần áo may sẵn đạt 380 triệu cái tăng 26,2%.

- Giấy bìa đạt 293 nghìn tấn tăng 6,2%.

- Phân hoá học đạt 753 nghìn tấn tăng 2,9%.

- Xi măng đạt 9,5 triệu tấn tăng 9,8%.

- Thép cán đạt 1,2 triệu tấn tăng 12,5%.

4. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:

a. Về xuất khẩu:

Kim ngạch xuất khẩu cả nước 4 tháng đầu năm ước đạt 12,1 tỷ USD tăng 25% so cùng kỳ và đạt 32,1% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp ước đạt 8,7 tỷ USD.

Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu lớn so cùng kỳ như: dầu thô đạt 5,4 triệu tấn giảm 8,8%, than đá đạt 8,7 triệu tấn tăng 70,4% (trong đó riêng Tập đoàn Than – khoáng sản Việt Nam xuất được 6,6 triệu tấn tăng 51%), hàng dệt may đạt 1,7 tỷ USD tăng 38,7%, hàng giày dép đạt trên 1 tỷ USD tăng 21,4%, sản phẩm gỗ đạt 656 triệu USD tăng 31,9%; hàng điện tử, linh kiện và vi tính đạt 540 triệu USD tăng 23,6%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù đạt 161 triệu USD tăng 7%, dây và cáp điện đạt 219 triệu USD tăng 44,9%, sản phẩm nhựa đạt 137 triệu USD tăng 33%, xe đạp và phụ tùng đạt 63 triệu USD giảm 2,5%.

Các mặt hàng xuất khẩu hầu hết đều tăng khá đặc biệt than đá có mức tăng cao (cần có chính sách đánh thuế xuất khẩu để hạn chế, dành than cho các nhà máy nhiệt điện than sắp đi vào hoạt động), dầu thô khai thác tiếp tục giảm do trữ lượng dầu tại các mỏ có hạn và quy trình kỹ thuật khai thác đã tới giới hạn.

b. Về nhập khẩu:

Kim ngạch nhập khẩu cả nước 4 tháng đầu năm ước đạt 12,3 tỷ USD tăng 6,9% so cùng kỳ, trong đó chủ yếu là máy móc và vật tư phục vụ công nghiệp.

Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so cùng kỳ như: ôtô nguyên chiếc đạt 4494 chiếc giảm 30%, linh kiện ôtô và phụ tùng đạt 140 triệu USD giảm 36%, linh kiện xe máy CKD và IKD đạt 144 triệu USD giảm 24%, xăng dầu các loại đạt 3,5 triệu tấn giảm 10%, phân bón các loại đạt 769 nghìn tấn tăng 3% (trong đó phân urê đạt 205 nghìn tấn giảm 8%), thép các loại đạt 1,5 triệu tấn giảm 16% (trong đó phôi thép đạt 478 nghìn tấn giảm 31%), giấy các loại đạt 235 nghìn tấn tăng 32%, bông các loại đạt 51 nghìn tấn giảm 9%, sợi các loại đạt 96 nghìn tấn tăng 40%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 1,9 tỷ USD tăng 14,2%, tân dược đạt 176 triệu USD tăng 24,5%, hoá chất các loại đạt 320 triệu USD tăng 17,8%, chất dẻo nguyên liệu đạt 415 nghìn tấn tăng 10,7%, vải đạt 833 triệu USD tăng 31,8%, nguyên phụ liệu dệt may da đạt 630 triệu USD giảm 5%, máy tính và linh kiện đạt 607 triệu USD tăng 15,8%.

Qua tình hình nhập khẩu giảm chủ yếu ở mặt hàng ôtô nguyên chiếc và linh kiện có thể do việc cho phép nhập khẩu xe cũ bắt đầu từ 01/5/2006 nên có sự chờ đợi giảm giá của thị trường xe trong nước, việc giảm nhập khẩu linh kiện xe máy trong khi sản lượng xe trong nước vẫn tăng chứng tỏ các doanh nghiệp đã nội địa hoá được khá nhiều linh kiện và phụ tùng, phôi thép giảm cũng có sự đóng góp của việc sản xuất phôi thép ở trong nước, các loại mặt hàng nhập khẩu khác đều tăng để đáp ứng nhu cầu trong nước và sản xuất hàng xuất khẩu.

* Số liệu kèm theo



Vụ Kinh tế công nghiệp

    Tổng số lượt xem: 1202
  •  

Đánh giá

(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)