1. Tình hình chung:
Tháng 5 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 44.125 tỷ đồng tăng 2,8% so với tháng 4 và tăng 16,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực kinh tế nhà nước tăng 10,7%, kinh tế ngoài quốc doanh tăng 20,3%, khu vực có vốn ĐTNN tăng 19,6%.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 206.786 tỷ đồng tăng 15,9% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8,9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 20,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,1% (trong đó Tcty dầu khí giảm 3%, các ngành khác tăng 23,7%).
Năm tháng đầu năm 2006 một số sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (15,5%) là than sạch tăng 23,7%, thép cán 16,3%, xi măng 16,5%, vải lụa thành phẩm 20,5%, quần áo dệt kim 18%, quần áo may sẵn 27%, thuốc trừ sâu 16,3%, thuốc ống 20,6%, sứ vệ sinh 31,8% so cùng kỳ năm ngoái.
Nhiều sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: điện sản xuất tăng 13%, ga hoá lỏng 2,8%, gạch xây 8,4%, gạch lát 6,3%, sữa hộp 8,4%, bia 11,2%, thuỷ sản chế biến 14,2%, bột ngọt 6,9%, giấy bìa các loại 8,6%, phân hoá học 4,5%, xà phòng các loại 12,5%, ắc quy 8,4%, động cơ điện tăng 8,2%, động cơ diezen 9,5%, xe máy các loại tăng 4,2% so cùng kỳ.
Nhiều sản phẩm giảm so với cùng kỳ gồm: dầu thô đạt 96,3%, khí đốt thiên nhiên 99,8%, xút NaOH 94,9%, thuốc lá bao 87,8%, đường mật 92,5%, thuốc viên các loại 93,6%, máy biến thế 67,6%, máy công cụ 76,5%, ôtô các loại 56%, tivi các loại đạt 93,7%, xe đạp đạt 74,3%, quạt điện dân dụng đạt 92,4% so cùng kỳ.
Theo vùng, lãnh thổ một số địa phương (chiếm 8/15 tỉnh, thành phố có tỷ trọng lớn) duy trì được mức tăng trưởng GTSXCN cao hơn kế hoạch của toàn ngành (15,5%) là Hà nội 16,8%, Hải phòng 19,1%, Hà Tây 22,4%, Hải dương 26%, Quảng Ninh 16,8%, Bình Dương 19,1%, Đồng Nai 17,7%, và Cần Thơ 21,4%. Một số địa phương (chiếm 7/15 tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn) có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành là Vĩnh Phúc 5,6%, Phú Thọ 12,8%, Thanh hoá 10,3%, Đà Nẵng 8,3%, Khánh hoà 15%, Tp. Hồ Chí Minh 12,9%, Bà rịa – Vũng Tàu 14,2%.
2. Một số nhận xét về tình hình sản xuất công nghiệp 5 tháng đầu năm 2006:
Trong tháng 5 giá cả có nhiều biến động đặc biệt là giá vàng, USD, dầu thô tăng cao đã tác động lên mặt bằng giá cả chung ở trong nước. Một số mặt hàng đầu vào của các ngành công nghiệp đã tăng giá như xăng dầu, phôi thép và sắp tới có thể là giá điện, than,... làm tăng chi phí đầu vào và giảm sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp.
Với các khó khăn về giá nguyên nhiên liệu tăng, công nghiệp 5 tháng đầu năm 2006 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng GTSXCN đạt 15,9% cao hơn so với kế hoạch cả năm của toàn ngành (15,5%) sau khi quý I chỉ đạt mức tăng 14,7%.
- Về cơ cấu sản phẩm được thống kê có 9/36 sản phẩm có mức tăng trưởng cao hơn mức kế hoạch chung toàn ngành, 15/36 sản phẩm có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành và 12/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ.
Than sạch khai thác, các sản phẩm dệt may tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, thép cán xây dựng và xi măng sau thời kỳ đầu năm có mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành, nay đã đạt mức tăng trên 16%. Một số sản phẩm quan trọng có tỷ trọng lớn tiếp tục có mức tăng trưởng thấp như điện sản xuất, dầu thô, một số sản phẩm gia công cơ khí và điện tử. Việc tăng trưởng toàn ngành ở mức 15,9% có thể lý giải do mức tăng cao tập trung ở các sản phẩm nằm ngoài danh mục được thống kê ở trên như sản phẩm gỗ, các sản phẩm điện tử như đầu video, DVD, máy lạnh, máy giặt,..., các sản phẩm cơ khí lớn như đóng tàu, khung nhà thép, thép lá, thép mạ, .... Sau ngày 1/5/2006, đã có một số ôtô cũ với số lượng ít được nhập khẩu về với giá thành rẻ hơn xe cùng loại sản xuất ở trong nước, tuy nhiên điều này cũng có tác động tâm lý lên khách hàng có nhu cầu mua xe ở trong nước chờ đợi giá xe sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới làm lượng xe sản xuất trong nước giảm chỉ còn trên 50% so với cùng kỳ.
- Về tăng trưởng của các địa phương là khá tốt với 8/15 địa phương được thống kê có mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch toàn ngành, 7/15 địa phương có mức tăng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành. Trong đó Tp. Hồ Chí Minh có tiếp tục có mức tăng trưởng 12,9% khá hơn so với mức tăng 11,4% của quý I năm nay, Bà rịa – Vũng tàu lại có mức tăng thấp hơn mức tăng trưởng chung của toàn ngành.
3. Tình hình sản xuất 5 tháng một số ngành, sản phẩm lớn so cùng kỳ:
- Than sạch khai thác đạt 16,1 triệu tấn tăng 23,7%.
- Dầu thô khai thác đạt 7,2 triệu tấn giảm 3,7%, khí đạt 2,9 tỷ m3 xấp xỉ bằng mức cùng kỳ.
- Bia đạt 555 triệu lít tăng 11,2%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 224 triệu m tăng 20,5%, quần áo dệt kim đạt 61,8 triệu cái tăng 18%, quần áo may sẵn đạt 474 triệu cái tăng 27% do kim ngạch xuất khẩu đang có mức tăng trưởng tốt.
- Giấy bìa đạt 372 nghìn tấn tăng 8,6%.
- Phân hoá học đạt 965 nghìn tấn tăng 4,5%.
- Xi măng đạt 13,3 triệu tấn tăng 16,5%.
- Thép cán đạt gần 1,6 triệu tấn tăng 16,3%.
4. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Về xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 5 tháng đầu năm ước đạt 15 tỷ USD tăng 24,3% so cùng kỳ và đạt 40% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp ước đạt 10,8 tỷ USD.
Một số mặt hàng công nghiệp xuất khẩu lớn so cùng kỳ như: dầu thô đạt 6,8 triệu tấn giảm 7%, than đá đạt 11 triệu tấn tăng 62%, hàng dệt may đạt 2,1 tỷ USD tăng 31%, hàng giày dép đạt trên 1,36 tỷ USD tăng 21%, sản phẩm gỗ đạt 802 triệu USD tăng 30%; hàng điện tử, linh kiện và vi tính đạt 636 triệu USD tăng 17,8%; túi xách, ví, vali, mũ, ô dù đạt 204 triệu USD tăng 6%, dây và cáp điện đạt 259 triệu USD tăng 38.2%, sản phẩm nhựa đạt 173 triệu USD tăng 33%, xe đạp và phụ tùng đạt 74 triệu USD giảm 10,4%.
Các mặt hàng xuất khẩu hầu hết đều tăng khá đặc biệt than đá có mức tăng cao (cần có chính sách đánh thuế xuất khẩu để hạn chế, dành than cho các nhà máy nhiệt điện than sắp đi vào hoạt động), dầu thô khai thác tiếp tục giảm do trữ lượng dầu tại các mỏ có hạn và quy trình kỹ thuật khai thác đã tới giới hạn, tuy nhiên giá bán dầu đang cao nên về kim ngạch xuất khẩu (quy ra giá trị) vẫn tăng.
b. Về nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 5 tháng đầu năm ước đạt 16 tỷ USD tăng 7,3% so cùng kỳ, trong đó chủ yếu là máy móc và vật tư phục vụ công nghiệp.
Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu so cùng kỳ như: ôtô nguyên chiếc đạt 8237 chiếc giảm 1% (riêng tháng 5 lượng xe nhập khẩu đạt 2600 chủ yếu là xe tải), linh kiện ôtô và phụ tùng đạt 156 triệu USD giảm 46% do lượng xe lắp ráp trong nước giảm mạnh, linh kiện xe máy CKD và IKD đạt 176 triệu USD giảm 15%, xăng dầu các loại đạt 4,5 triệu tấn giảm 11%, phân bón các loại đạt 1,1 triệu tấn tăng 4,7% (trong đó phân urê đạt 219 nghìn tấn giảm 29%), thép các loại đạt gần 2,1 triệu tấn giảm 6,4% (trong đó phôi thép đạt 751 nghìn tấn giảm 10%), giấy các loại đạt 288 nghìn tấn tăng 27,4%, bông các loại đạt 69 nghìn tấn tăng 1%, sợi các loại đạt 128 nghìn tấn tăng 44,5%, máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 2,35 tỷ USD tăng 11%, tân dược đạt 222 triệu USD tăng 26%, hoá chất các loại đạt 369 triệu USD tăng 7,4%, chất dẻo nguyên liệu đạt 542 nghìn tấn tăng 26,6%, vải đạt 1,17 tỷ USD tăng 34%, nguyên phụ liệu dệt may da đạt 841 triệu USD giảm 4%, máy tính và linh kiện đạt 760 triệu USD tăng 15,5%.