1. Tình hình chung:
Tháng 10 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 42.393 tỷ đồng tăng 18,3% so với cùng kỳ và tăng 4,7% so với tháng 9/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 26,9% so cùng kỳ.
Cộng dồn 10 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 351.058 tỷ đồng tăng 16,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,1% (chiếm 34%, trong đó TW tăng 13,3%, ĐP giảm 0,2%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 24,5% (chiếm 29,5%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,4% (chiếm 36,5%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 7,3%, các ngành khác tăng 27,8%).
Mười tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 20%; sữa hộp 16,5%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 35,6%, xút NaOH 25,2%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là thép cán 21,1%, gạch lát 17,1%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ tăng 41,9%, ôtô các loại tăng 43,3% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 14%, khí đốt thiên nhiên 4,2%, xi măng tăng 10,4%, gạch xây 7,3%, sứ vệ sinh 12,7%, thuỷ sản chế biến tăng 15%; bột ngọt 14%, bia 8%, thuốc lá bao 5%, xà phòng các loại 4,5%, thuốc trừ sâu 11,2%, thuốc viên các loại 11,8%, ắc quy 5,8%, giấy bìa các loại 14,2%, vải lụa thành phẩm 0,4%, quần áo may sẵn 13,8%, quần áo dệt kim 8,2%, động cơ điện 13,4%, xe máy 14%, quạt điện dân dụng tăng 9,4% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 91,6%, ga hoá lỏng 92,5%, đường mật các loại 76,6%, thuốc ống đạt 97,1%, động cơ diezen 78,7%, máy biến thế 92,6%, xe đạp hoàn chỉnh 89,5%, tivi các loại đạt 91,9% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ mười tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hải phòng tăng 17%, Vĩnh Phúc tăng 33,5%, Hà Tây tăng 18,3%, Hải Dương tăng 27,2%, Quảng Ninh tăng 17,5%, Đà Nẵng tăng 18,2%, Khánh Hoà tăng 17,3%, Bình Dương tăng 32,4% (chiếm 5,7%), Đồng Nai tăng 21,9% (chiếm 7,6%), Cần Thơ tăng 24,8%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Hà Nội tăng 14,2% (chiếm tỷ trọng 8,3%), Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,9% (chiếm tỷ trọng 24,4%), Phú Thọ tăng 13,8%, Thanh Hoá tăng 10,2%, Bà rịa – Vũng Tàu tăng 13,3% (chiếm 9,4%).
Một số nhận xét chung:
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng đầu năm 2005 đạt 16,7% vượt kế hoạch đề ra cho cả năm (16%), tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại sau:
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (9,1% so với mức tăng 10 tháng năm 2004 là 12,2%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng vượt mức kế hoạch toàn ngành nhưng khai thác dầu thô giảm 8,4% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí cũng tăng thấp so cùng kỳ và sản xuất gas hoá lỏng giảm so cùng kỳ.
- Về tình hình sản xuất các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 20/36 sản phẩm thống kê chính như điện, xi măng, bia, ...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 8/36 sản phẩm như dầu thô, lắp ráp tivi, xe đạp...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dệt may có mức tăng chậm, dầu thô (về khối lượng), xe đạp và phụ tùng giảm so cùng kỳ.
- Theo vùng lãnh thổ: nhiều tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 10/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai, tuy nhiên một số tỉnh và thành phố lớn như Hà nội, Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa-Vũng Tàu,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước đã có mức tăng trưởng khá hơn các tháng đầu năm nhưng vẫn thấp so với cả nước (13,9%).
- Trong các tháng cuối năm cần tích cực triển khai hoàn thành một số dự án lớn như xi măng Sông Gianh, Hải phòng mới, Nhà máy sản xuất phôi và cán thép Phú Mỹ, kẽm điện phân Thái nguyên, điện Cao ngạn,...Tiếp tục triển khai theo tiến độ các dự án lớn khác như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Khí - điện - đạm Cà Mau, thuỷ điện Sơn La, thuỷ điện Tuyên Quang, Tổ hợp đồng Sin Quyền,...
- Về tăng trưởng công nghiệp toàn ngành cả năm 2005 theo đánh giá có thể đạt 16,5-17% (trong đó khu vực nhà nước tăng 9-11%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 25-26%, khu vực ĐTNN tăng 17-19%).
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Mười tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt 43,4 tỷ kwh tăng 14% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 34,4 tỷ Kwh tăng 2,3%, điện mua ngoài chiếm 20,9% sản lượng toàn ngành và đạt 9 tỷ Kwh tăng 100,6% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia, ngoài ra một phần điện được mua từ Vân Nam (Trung Quốc) để cung cấp cho tỉnh Lào Cai và Hà Giang.
Hiện nay mực nước hồ Hoà bình và các hồ thuỷ điện khác đã tích đủ nước, cung cấp ổn định cho hệ thống và góp phần xả lũ thượng nguồn.
- Dầu thô khai thác đạt 15,3 triệu tấn giảm 8,4% so cùng kỳ (nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ hiện có không thể tăng được sản lượng, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp). Khí thiên nhiên đạt trên 5,3 tỷ m3 tăng 4,2% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 279,7 nghìn tấn giảm 7,5%.
- Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt 25,2 triệu tấn tăng 20% so cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 24 triệu tấn tăng 20,2% với cùng kỳ do có thị trường xuất khẩu tốt.
- Vào thời điểm cuối năm các công trình xây dựng bắt đầu đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành nên các sản phẩm vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao như:
+ Thép cán đạt 2,95 triệu tấn tăng 21,1% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 993 ngàn tấn tăng 14%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 1,2 triệu tấn tăng 40,3%, khu vực ĐTNN đạt 744 nghìn tấn tăng 6,4% so cùng kỳ.
+ Xi măng đạt 22,3 triệu tấn tăng 10,4% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 14 triệu tấn tăng 6,3%, khu vực ĐTNN đạt 6,8 triệu tấn tăng 13,8%.
- Giấy các loại đạt 731 nghìn tấn tăng 14,2%, trong đó 2 khu vực chiếm tỷ trọng cao là quốc doanh đạt 236 nghìn tấn tăng 18,2%, ngoài quốc doanh đạt 472 nghìn tấn tăng 12%.
- Vải lụa thành phẩm đạt 410 triệu m tăng 0,4% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 825,7 triệu cái tăng 13,8%, quần áo dệt kim đạt 105,6 triệu cái tăng 8,2%. Hàng dệt may tiếp tục gặp khó khăn trong xuất khẩu nên có tốc độ tăng trưởng chậm.
- Phân hoá học đạt 1,85 triệu tấn (chưa tính phân NPK) tăng 35,6% do có nhà máy đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất cung cấp phân urê cho thị trường trong nước.
3. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp:
a. Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu cả nước 10 tháng ước đạt 26,4 tỷ USD tăng 21,9% so cùng kỳ và đạt 86% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp đạt khoảng 18,5 tỷ USD.
Các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt gần 15 triệu tấn giảm 7,2%, than đá đạt gần 13 triệu tấn tăng 38,2%, hàng dệt may đạt gần 4 tỷ USD tăng 4,2%, hàng giày dép 2,4 tỷ USD tăng 10,6%, hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1,1 tỷ USD tăng 36,8%, dây và cáp điện đạt 402 triệu USD tăng 30,1%, sản phẩm nhựa đạt 286 triệu USD tăng 42,3%, xe đạp và phụ tùng đạt 123 triệu USD giảm 36%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt 459 triệu USD tăng 11%, sản phẩm gỗ đạt 1,2 tỷ USD tăng 45,9%.
b. Nhập khẩu:
Kim ngạch nhập khẩu cả nước 10 tháng ước đạt 30,5 tỷ USD tăng 18,3% so cùng kỳ trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị, nhiên liệu và nguyên liệu cho ngành công nghiệp.
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm ôtô nguyên chiếc đạt gần 15 nghìn chiếc giảm 16% so cùng kỳ, linh kiện và phụ tùng ôtô đạt 730 triệu USD tăng 71,7%, linh kiện xe máy đạt 414 triệu USD tăng 25%, xăng dầu các loại 9,6 triệu tấn tăng 4,7%, phân bón đạt 2,2 triệu tấn giảm 33% (trong đó phân urê đạt 577 nghìn tấn), thép các loại đạt gần 4,7 triệu tăng 14,2% (trong đó phôi thép đạt 1,87 triệu tấn tăng 6,8%), giấy các loại đạt 462 nghìn tấn tăng 19,5%, bông các loại đạt 131 nghìn tấn tăng 11,5%, sợi các loại đạt 175 nghìn tấn giảm 2%, vải đạt 1,9 tỷ USD tăng 23,3%, nguyên liệu dệt may da đạt gần 1,9 tỷ USD tăng 3,7%, máy móc và phụ tùng đạt 4,4 tỷ USD tăng 1,6%, hoá chất các loại đạt 704 triệu USD tăng 29,4%, chất dẻo nguyên liệu đạt gần 1 triệu tấn tăng 8%.