Ngày 23/08/2005-17:05:00 PM
1. Tình hình chung: Tháng 8 năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 40.658 tỷ đồng tăng 18,1% so với cùng kỳ và tăng 2,8% so với tháng 7/2005. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,3%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22,4% so cùng kỳ. Cộng dồn 8 tháng đầu năm 2005 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 285.762 tỷ đồng tăng 16,2% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,6% (chiếm 32%), khu vực ngoài quốc doanh tăng 23,5% (chiếm 31%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,7% (chiếm 37%) (trong đó Tcty dầu khí giảm 9,3%, các ngành khác tăng 25,8%). Tám tháng đầu năm 2005 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN toàn ngành đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (16%) là than sạch tăng 23,9%; thuỷ sản chế biến tăng 17,6%; các sản phẩm hoá chất là phân hoá học tăng 48,7%, thuốc trừ sâu 16,6%, xút NaOH 29,1%; các sản phẩm vật liệu xây dựng là thép cán 16,5%, sứ vệ sinh 21,6%; các sản phẩm điện tử, cơ khí chế tạo như máy công cụ tăng 27,4%, động cơ điện 18%, ôtô các loại tăng 42,9% so cùng kỳ năm ngoái. Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch toàn ngành gồm: điện sản xuất tăng 14,7%, xi măng tăng 13,7%, gạch xây 6,6%, gạch lát 12,9%, khí đốt thiên nhiên 10%, sữa hộp 15,1%, bột ngọt 15,3%, bia 10,7%, thuốc lá bao 7%, xà phòng các loại 7,5%, thuốc viên các loại 13,1%, ắc quy 6,6%, giấy bìa các loại 9,7%, quần áo may sẵn 10,5%, quần áo dệt kim 1,4%, xe máy 15,2%, quạt điện dân dụng tăng 12,6% so cùng kỳ. Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 89%, ga hoá lỏng 98,3%, đường mật các loại 76,6%, thuốc ống đạt 93,8%, vải lụa thành phẩm 97,3%, động cơ diezen 78,5%, máy biến thế 90,9%, xe đạp hoàn chỉnh 96,3%, tivi các loại đạt 93,5% so cùng kỳ. Theo vùng lãnh thổ tám tháng đầu năm 2005 một số địa phương có ngành công nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng cao so với cả nước đạt mức tăng trưởng về GTSXCN so cùng kỳ cao hơn kế hoạch toàn ngành như Hải phòng tăng 17,1%, Vĩnh Phúc tăng 38,1%, Hà Tây tăng 21,4%, Hải Dương tăng 29,3%, Quảng Ninh tăng 16,9%, Đà Nẵng tăng 16,2%, Khánh Hoà tăng 16,6%, Bình Dương tăng 33,8% (chiếm 8,4%), Đồng Nai tăng 21,8% (chiếm 8,3%), Cần Thơ tăng 27,4%. Tuy nhiên một số địa phương chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Hà Nội tăng 14,9% (chiếm tỷ trọng 7,6%), Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,7% (chiếm tỷ trọng 24,3%), Phú Thọ tăng 13,8%, Thanh Hoá tăng 10%, Bà rịa – Vũng Tàu tăng 10,9% (chiếm 9,4%).
Một số nhận xét chung: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 8 tháng đầu năm 2005 đạt 16,2% vượt kế hoạch đề ra cho cả năm (16%), tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại sau: - Khu vực doanh nghiệp nhà nước đạt mức tăng trưởng thấp so cùng kỳ (9% so với mức tăng 8 tháng năm 2004 là 11,8%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã vượt mức kế hoạch toàn ngành nhưng khai thác dầu thô vẫn giảm 11% so cùng kỳ, đồng thời khai thác khí cũng tăng thấp so cùng kỳ và sản xuất gas hoá lỏng giảm so cùng kỳ. - Về tình hình sản xuất các sản phẩm công nghiệp: nhiều sản phẩm công nghiệp chính có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch đề ra (chiếm 17/36 sản phẩm thống kê chính như điện, xi măng, bia, ...) hoặc giảm so cùng kỳ (chiếm 9/36 sản phẩm như dầu thô, lắp ráp tivi,vải lụa thành phẩm...). Đối với thị trường xuất khẩu một số mặt hàng xuất khẩu chính như dầu thô, dệt may, xe đạp và phụ tùng có mức tăng chậm hoặc giảm so cùng kỳ. - Theo vùng lãnh thổ: trong khi một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN khá lớn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 10/15 tỉnh thống kê), trong đó có Bình Dương, Đồng Nai thì một số tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Bà rịa-Vũng Tàu,... đạt mức tăng trưởng thấp hơn kế hoạch toàn ngành. Đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh chiếm khoảng 25-26% GTSXCN cả nước đã có mức tăng trưởng khá hơn các tháng đầu năm nhưng vẫn thấp so với cả nước (13,7%), Hà nội sau thời gian có mức tăng GTSXCN cao hơn trung bình cả nước lại giảm mức tăng xuống thấp hơn mức 16%. - Trong các tháng 8 do tình hình giá xăng dầu trên thế giới tăng cao nên Bộ Tài chính đã cho phép tăng mức xăng dầu bán lẻ (trong đó xăng Mogas 92 lên 10.000 đ/l, dầu diesel lên 7500 đ/l), việc tăng giá xăng dầu sẽ làm giảm gánh nặng bù lỗ từ ngân sách nhà nước cho các doanh nghiệp nhập khẩu mặt hàng này, tuy nhiên sẽ ảnh hưởng tiêu cực làm tăng chi phí sản xuất của các ngành sản xuất khác, vì vậy các doanh nghiệp phải áp dụng mọi biện pháp để giảm chi phí sản xuất đảm bảo mức tăng trưởng chung của ngành. - Trong các tháng cuối năm cần tích cực triển khai hoàn thành một số dự án lớn như xi măng Sông Gianh, Hải phòng mới, Nhà máy sản xuất phôi và cán thép Phú Mỹ, kẽm điện phân Thái nguyên, điện Cao ngạn,...Tiếp tục triển khai theo tiến độ các dự án lớn khác như Nhà máy lọc dầu Dung Quất, Khí - điện - đạm Cà Mau, thuỷ điện Sơn La, thuỷ điện Tuyên Quang, Tổ hợp đồng Sin Quyền,... - Về tăng trưởng công nghiệp toàn ngành cả năm 2005 có thể đạt 16-16,5% (trong đó
2. Tình hình cụ thể các ngành: Tám tháng đầu năm 2005 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau: - Điện sản xuất ước đạt 34,7 tỷ kwh tăng 14,7% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 26,8 tỷ Kwh tăng 1,1%, điện mua ngoài chiếm 22,7% sản lượng toàn ngành và đạt gần 7,9 tỷ Kwh tăng 111,7% so với cùng kỳ do ngoài các nguồn điện cũ như Hiệp Phước, Vedan có thêm dự án điện BOT Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 2-2 đi vào hoạt động và cung cấp điện ổn định lên lưới quốc gia, ngoài ra một phần điện được mua từ Vân Nam (Trung Quốc) để cung cấp cho tỉnh Lào Cai và Hà Giang. Hiện nay mực nước hồ Hoà bình và các hồ thuỷ điện khác đã trở lại bình thường và cung cấp ổn định cho hệ thống. - Dầu thô khai thác đạt 12,1 triệu tấn giảm 11% so cùng kỳ (nguyên nhân do giới hạn kỹ thuật của các mỏ hiện có không thể tăng được sản lượng, trong khi các mỏ mới phát hiện có trữ lượng thấp). Khí thiên nhiên đạt trên 4,5 tỷ m3 tăng 10% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 234,6 nghìn tấn giảm 2,5%. - Than sạch khai thác duy trì mức tăng trưởng cao đạt 20,3 triệu tấn tăng 23,9% cùng kỳ, trong đó Tổng công ty than đạt 19,4 triệu tấn tăng 24,8% với cùng kỳ do có thị trường xuất khẩu tốt. - Vào thời điểm giữa năm các công trình xây dựng bắt đầu đẩy nhanh tiến độ nên các sản phẩm vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao như: + Thép cán đạt 2,26 triệu tấn tăng 16,5% cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt 750 ngàn tấn tăng 8,2%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 931 nghìn tấn tăng 37,6%, khu vực ĐTNN đạt 581 nghìn tấn tăng 1,6% so cùng kỳ. + Xi măng đạt gần 18 triệu tấn tăng 13,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất đạt 11,5 triệu tấn tăng 11%, khu vực ĐTNN đạt 5,4 triệu tấn tăng 14,6%. - Giấy các loại đạt 561 nghìn tấn tăng 9,7%, trong đó 2 khu vực chiếm tỷ trọng cao là quốc doanh đạt 185 nghìn tấn tăng 15,6%, ngoài quốc doanh đạt 356 nghìn tấn tăng 6%. - Vải lụa thành phẩm đạt 323 triệu m giảm 2,7% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 625 triệu cái tăng 10,5%, quần áo dệt kim đạt 81 triệu cái tăng 1,4%. Hàng dệt may tiếp tục gặp khó khăn trong xuất khẩu nên có tốc độ tăng trưởng chậm. - Phân hoá học đạt 1,45 triệu tấn (chưa tính phân NPK) tăng 48,7% do có nhà máy đạm Phú Mỹ đi vào sản xuất cung cấp phân urê cho thị trường trong nước.
3. Về xuất nhập khẩu hàng công nghiệp: a. Xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu cả nước 8 tháng ước đạt 17,1 tỷ USD tăng 18,7% so cùng kỳ và đạt 66% kế hoạch năm, trong đó hàng công nghiệp đạt khoảng 12,3 tỷ USD. Các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu chủ yếu gồm: dầu thô đạt 11,5 triệu tấn giảm 12%, than đá đạt 10,5 triệu tấn tăng 40%, hàng dệt may đạt trên 3 tỷ USD tăng 0,7%, hàng giày dép gần 2 tỷ USD tăng 10,7%, hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 863 triệu USD tăng 35,2%, dây và cáp điện đạt 307 triệu USD tăng 25,6%, sản phẩm nhựa đạt 229 triệu USD tăng 48,4%, xe đạp và phụ tùng đạt 103 triệu USD giảm 35%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt 360 triệu USD tăng 9,4%, sản phẩm gỗ đạt 966 triệu USD tăng 50,7%. b. Nhập khẩu: Kim ngạch nhập khẩu cả nước 8 tháng ước đạt 24,1 tỷ USD tăng 20% so cùng kỳ trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị, nhiên liệu và nguyên liệu cho ngành công nghiệp. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu gồm ôtô nguyên chiếc đạt 13595 chiếc giảm 1,6% so cùng kỳ, linh kiện và phụ tùng ôtô đạt 570 triệu USD tăng 84,6%, linh kiện xe máy đạt 318 triệu USD tăng 24,2%, xăng dầu các loại 7,9 triệu tấn tăng 6%, phân bón đạt gần 1,9 triệu tấn giảm 21% (trong đó phân urê đạt 574 nghìn tấn), thép các loại đạt 3,6 triệu tăng 14% (trong đó phôi thép đạt 1,4 triệu tấn tăng 9%), giấy các loại đạt 300 nghìn tấn tăng 21,5%, bông các loại đạt 97 nghìn tấn tăng 15%, sợi các loại đạt 144 nghìn tấn giảm 3,3%, vải đạt 1,5 tỷ USD tăng 18%, nguyên liệu dệt may da đạt gần 1,5 tỷ USD tăng 0,6%, máy móc và phụ tùng đạt 3,3 tỷ USD giảm 0,5%, hoá chất các loại đạt 561 triệu USD tăng 34,5%, chất dẻo nguyên liệu đạt 770 triệu USD tăng 4,2%, linh kiện điện tử và máy vi tính đạt trên 1 tỷ USD tăng 34,6%.
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)
|
|