1. Tình hình chung:
Tháng 01 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 37.287 tỷ đồng giảm 12,2% so với tháng 12 năm 2005 và tăng 15,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 5,1%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,2% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí giảm 3%, các ngành khác tăng 26,8%).
Tháng 1 năm 2006 các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (15,5%) là thuỷ sản chế biến tăng 51,3%, sữa hộp tăng 17,2%, bia 20,6%, quần áo dệt kim 21,1%, quần áo may sẵn 17,3%, thuốc trừ sâu 29,9%, sứ vệ sinh 40,2%, máy công cụ tăng 56,9% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: điện sản xuất tăng 8,3%, than sạch tăng 15,2%, ga hoá lỏng 2,6%, xi măng 11,7%, gạch xây 8,3%, gạch lát 5,4%, bột ngọt 2,4%, thuốc lá bao 2,3%, giấy bìa các loại 7,7%, vải lụa thành phẩm 8,1%, xà phòng các loại 0,6%, ắc quy 11,6%, thuốc viên các loại 7,1%; máy biến thế 3,8%, ôtô các loại 8,1%, xe máy tăng 3,4% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 91,7%, khí đốt thiên nhiên 84,1%, thép cán 90,9%, phân hoá học 88,2%, xút NaOH 94,8%, thuốc ống 91,6%, động cơ điện 76,9%, động cơ diezen 92,7%, xe đạp hoàn chỉnh 85%, tivi các loại 91,7%, quạt điện dân dụng đạt 81,3% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ tháng 1 năm 2006 các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng cao về GTSXCN so cùng kỳ như Hà Nội tăng 20,4% (chiếm tỷ trọng 6,9%), Hà Tây tăng 15,6%, Quảng ninh 16%, Hải phòng tăng 22%, Vĩnh Phúc tăng 17,6%, Đà Nẵng tăng 18,3%, Khánh Hoà tăng 17,1%, Bình Dương tăng 26,6%, Đồng Nai tăng 17,2%, Cần Thơ tăng 19,3%. Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 12,2% (chiếm tỷ trọng 26,1%), Phú Thọ tăng 9,1%, Hải Dương tăng 2,7%, Thanh Hoá tăng 10,9%, Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 7,8%.
Một số nhận xét chung:
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1 năm 2006 tăng 15,7% vượt mức kế hoạch đề ra trung bình cho cả năm, trong đó khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp nhất (5,1%) và có tỷ trọng ngày càng giảm trong GTSXCN cả nước (chỉ còn 31,3%), khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng cao trên 21% và có tỷ trọng tăng dần chiếm 31,7% và 37% toàn ngành. Nguyên nhân một phần là do các doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục chuyển đổi sang mô hình cổ phần và tư nhân hoá.
Về các sản phẩm công nghiệp: các sản phẩm công nghiệp chính được thống kê đạt mức tăng trưởng cao hơn so kế hoạch đề ra cho toàn ngành chiếm tỷ trọng không cao (với 8/34 sản phẩm liệt kê), 16/34 sản phẩm có tăng trưởng nhưng thấp hơn kế hoạch toàn ngành và 10/34 sản phẩm giảm so cùng kỳ. Như vậy việc tăng trưởng cao của toàn ngành có thể được giải thích do sự tăng trưởng của các chủng loại sản phẩm có giá trị cao trong cùng một loại sản phẩm (như hàng dệt may cao cấp so với hàng bình thường, tivi màn hình rộng,...) và ở các chủng loại sản phẩm chưa đưa vào danh mục sản phẩm công nghiệp chính thống kê hàng tháng (máy vi tính, điều hoà nhiệt độ, kết cấu thép, gia công cơ khí, đóng tàu,...).
- Theo vùng lãnh thổ: nhiều các tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN lớn đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 10/15 tỉnh). Tuy nhiên, một số tỉnh thành phố vẫn có mức tăng thấp hơn kế hoạch toàn ngành so cùng kỳ, trong đó có Tp. Hồ Chí Minh và Bà rịa – Vũng tàu.
- Trong tháng 1/2006 tình hình giá cả nguyên vật liệu vẫn ổn định như ở các tháng cuối năm 2005, giá dầu thô dao động ở mức trên 60 USD/thùng, giá phôi thép duy trì ở mức 300-350 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước ổn định ở mức 7-7,5 triệu đ/tấn. Trong năm 2006, một số giá sản phẩm quan trọng như điện, than dự kiến sẽ tăng và có thể ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Tháng 1/2006 tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt trên 4,3 tỷ kwh chỉ tăng 8,3% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt 3,3 tỷ Kwh tăng 2,5%, điện mua ngoài chiếm 23% toàn ngành đạt trên 1 tỷ Kwh tăng 33% so với cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác đạt 1,5 triệu tấn giảm 2% so với tháng 12 năm 2005 và giảm 8% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt 534 triệu m3 giảm 6% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 35,6 nghìn tấn tăng 2,6% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác tiếp tục có mức tăng trưởng cao (tuy nhiên thấp hơn kế hoạch cả năm toàn ngành công nghiệp) đạt gần 2,8 triệu tấn tăng 15,2% so cùng kỳ, trong đó xuất khẩu gần 1,5 triệu tấn.
- Thép cán đạt 242 nghìn tấn giảm 36% so với tháng 12/2005 và giảm 9% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước đạt chỉ 33 ngàn tấn giảm 60%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 139 nghìn tấn tăng 28,8%, khu vực ĐTNN đạt 70 nghìn tấn giảm 7%. Nguyên nhân là do lượng tồn kho cao từ cuối năm 2005 và nhu cầu xây dựng bắt đầu giảm do thời gian gần Tết.
- Xi măng đạt 2,4 triệu tấn tăng 11,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất 1,5 triệu tấn giảm 3%, khu vực ĐTNN đạt 0,8 triệu tấn tăng 53,8% (do có nhà máy xi măng liên doanh Phúc Sơn đi vào sản xuất ổn định).
- Phân hoá học đạt 171 ngàn tấn giảm 12% so cùng kỳ, giấy các loại đạt 79 nghìn tấn tăng 7,7%. - Vải lụa thành phẩm đạt 41,5 triệu m tăng 8,1% so cùng kỳ, quần áo may sẵn đạt 93 triệu cái tăng 17,3%, quần áo dệt kim đạt 11,8 triệu cái tăng 21,1%.
3. Về tình hình giao kế hoạch:
Trong tháng 1/2006 các đơn vị đầu mối (các Tổng công ty 91) đã giao kế hoạch vốn và sản lượng sản xuất để triển khai theo mục tiêu đã đề ra cho năm 2006. Bộ Công nghiệp đang xin ý kiến thoả thuận của Bộ ta để giao kế hoạch cụ thể vốn đầu tư XDCB năm 2006, dự kiến sẽ trả lời trước ngày 25/01/2006.