1. Tình hình chung:
Tháng 02 năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 37.850 tỷ đồng giảm 7,6% so với tháng 01 năm 2006 và tăng 23,7% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 23,2%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 29,1%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5% so với cùng kỳ (trong đó Tcty dầu khí tăng 5,5%, các ngành khác tăng 22,8%). Nguyên nhân biến động chủ yếu là do thời gian nghỉ Tết kéo dài và rơi vào giữa tháng 1 và tháng 2.
Cộng dồn hai tháng đầu năm giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 78.803 tỷ đồng tăng 15,8% so cùng kỳ, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 8%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 21,7%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,3% (trong đó Tcty dầu khí giảm 2,6%, các ngành khác tăng 22,3%).
Hai tháng đầu năm các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong GTSXCN đạt mức tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (15,5%) là than sạch tăng 21,8%, xi măng 15,5%, vải lụa thành phẩm 23,2%, quần áo dệt kim 24,4%, quần áo may sẵn 39,3%, thuốc trừ sâu 40,7%, xà phòng các loại 21,3%, sứ vệ sinh 25,1%, máy công cụ 27,8%, động cơ điện tăng 62,6% so cùng kỳ năm ngoái.
Các sản phẩm có mức tăng trưởng thấp hơn mức kế hoạch ngành gồm: điện sản xuất tăng 9,1%, ga hoá lỏng 8,9%, sữa hộp tăng 4,5%, đường mật 0,6%, bia 8,3%, gạch xây 10,1%, gạch lát 4,5%, thuỷ sản chế biến tăng 14,8%, bột ngọt 11%, giấy bìa các loại 8,2%, ắc quy 14,2%, thuốc ống 12,8%; tivi các loại 1,1%, xe máy tăng 6,4% so cùng kỳ.
Một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ có dầu thô đạt 91,7%, khí đốt thiên nhiên 84,1%, thép cán 95,5%, phân hoá học 90,6%, xút NaOH 86,5%, thuốc lá bao 96,3%, thuốc viên các loại 98,1%, động cơ diezen 87,8%, máy biến thế 73,3%, ôtô các loại 49,9%, xe đạp hoàn chỉnh 97,3%, quạt điện dân dụng đạt 92,5% so cùng kỳ.
Theo vùng lãnh thổ 2 tháng đầu năm 2006 các tỉnh, thành phố đạt mức tăng trưởng cao về GTSXCN so cùng kỳ như Hà Nội tăng 21,3% (chiếm tỷ trọng 6,9%), Hà Tây tăng 16,3%, Quảng ninh 17,5%, Hải phòng tăng 20%, Khánh Hoà tăng 15,6%, Bình Dương tăng 20,8%, Đồng Nai tăng 17,9%, Cần Thơ tăng 19,1%. Một số tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng lớn đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn kế hoạch cả nước gồm: Tp. Hồ Chí Minh tăng 13,1% (chiếm tỷ trọng 26,1%), Đà Nẵng tăng 12,2%, Vĩnh Phúc tăng 7,1%, Phú Thọ tăng 8,3%, Hải Dương tăng 6,2%, Thanh Hoá tăng 6,6%, Bà Rịa – Vũng Tàu tăng 5,6%.
Một số nhận xét chung:
Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 2 năm 2006 có giảm so với tháng 1 do thời gian nghỉ Tết kéo dài nhưng tăng 23,7% so cùng kỳ nên cộng dồn 2 tháng đầu năm vẫn có mức tăng trưởng cao 15,8% vượt mức kế hoạch đề ra trung bình cho cả năm, trong đó khu vực kinh tế nhà nước có mức tăng thấp nhất (8%) và có tỷ trọng ngày càng giảm trong GTSXCN cả nước (chỉ còn 29,2%), khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức tăng trưởng cao và có tỷ trọng tăng dần chiếm 33,3% và 37,5% toàn ngành. Nguyên nhân một phần là do các doanh nghiệp nhà nước đang tiếp tục chuyển đổi sang mô hình cổ phần và tư nhân hoá.
Về các sản phẩm công nghiệp: các sản phẩm công nghiệp chính được thống kê đạt mức tăng trưởng cao hơn so kế hoạch đề ra cho toàn ngành chiếm tỷ trọng không cao (với 10/36 sản phẩm liệt kê), 14/36 sản phẩm có tăng trưởng nhưng thấp hơn kế hoạch toàn ngành và 12/36 sản phẩm giảm so cùng kỳ. Như vậy việc tăng trưởng cao của toàn ngành có thể được giải thích do sự tăng trưởng của các chủng loại sản phẩm có giá trị cao trong cùng một loại sản phẩm (như hàng dệt may cao cấp so với hàng bình thường, tivi màn hình rộng,...) và ở các chủng loại sản phẩm chưa đưa vào danh mục sản phẩm công nghiệp chính thống kê hàng tháng (máy vi tính, điều hoà nhiệt độ, kết cấu thép, gia công cơ khí, đóng tàu,...).
- Theo vùng lãnh thổ: nhiều các tỉnh, thành phố chiếm tỷ trọng GTSXCN lớn đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra cho toàn ngành (với 8/15 tỉnh), tuy nhiên một số tỉnh thành phố vẫn có mức tăng thấp hơn kế hoạch toàn ngành so cùng kỳ, trong đó có Tp. Hồ Chí Minh và Bà rịa – Vũng tàu.
- Trong tháng 2/2006 tình hình giá cả nguyên vật liệu vẫn ổn định như ở các tháng cuối năm 2005, giá dầu thô dao động ở mức trên 60 USD/thùng, giá phôi thép duy trì ở mức 300-350 USD/tấn nên giá thép xây dựng trong nước ổn định ở mức 7-7,5 triệu đ/tấn. Sau thời gian biến động giá vào dịp Tết, hiện nay giá các mặt hàng đã dần đi vào ổn định.
2. Tình hình cụ thể các ngành:
Hai tháng đầu năm tình hình sản xuất một số ngành công nghiệp chủ yếu như sau:
- Điện sản xuất ước đạt trên 8 tỷ kwh chỉ tăng 9,1% so cùng kỳ, trong đó Tcty điện lực đạt gần 6 tỷ Kwh giảm 0,4%, điện mua ngoài chiếm trên 25% toàn ngành đạt trên 2 tỷ Kwh tăng 50% so với cùng kỳ.
- Dầu thô khai thác tháng 2 đạt 1,38 triệu tấn giảm 8% so với tháng 01/2006 và tăng 2% so cùng kỳ; 2 tháng đạt 2,88 triệu tấn giảm 4% so cùng kỳ. Khí thiên nhiên đạt 977 triệu m3 giảm 1% so cùng kỳ, khí hoá lỏng đạt 65 nghìn tấn tăng 8,9% so cùng kỳ.
- Than sạch khai thác tiếp tục có mức tăng trưởng cao đạt gần 5,4 triệu tấn tăng 21,8% so cùng kỳ, trong đó xuất khẩu gần 3 triệu tấn.
- Thép cán đạt 463 nghìn tấn giảm 4% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước chỉ đạt 96 ngàn tấn giảm 42%, khu vực ngoài quốc doanh đạt 245 nghìn tấn tăng 35%, khu vực ĐTNN đạt 122 nghìn tấn giảm 11%. Nguyên nhân là do lượng tồn kho cao từ cuối năm 2005 và nhu cầu xây dựng vẫn chưa tăng trong thời gian sau Tết. Đặc biệt tỷ trọng của khu vực nhà nước chỉ còn chiếm 20%, khu vực ngoài quốc doanh chiếm tới 53% và khu vực ĐTNN chiếm 27%.
- Xi măng đạt 4 triệu tấn tăng 15,5% so cùng kỳ, trong đó khu vực nhà nước sản xuất 2,4 triệu tấn tăng 2,4%, khu vực ĐTNN đạt 1,3 triệu tấn tăng 42% (do có nhà máy xi măng liên doanh Phúc Sơn đi vào sản xuất ổn định).
- Phân hoá học đạt 340 ngàn tấn giảm 9,4% so cùng kỳ.
- Giấy các loại đạt 144 nghìn tấn tăng 8,2%.
- Các sản phẩm dệt may có mức tăng trưởng cao: vải lụa thành phẩm đạt 84 triệu m tăng 23,2%, quần áo may sẵn đạt 190 triệu cái tăng 39,3%, quần áo dệt kim đạt 21,4 triệu cái tăng 24,4%.