Trong quý I/2022, kinh tế - xã hội của tỉnh diễn ra trong điều kiện tương đối thuận lợi, tỉnh đã thực hiện hiệu quả mục tiêu thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19, tạo điều kiện cho kinh tế tỉnh từng bước được phục hồi, các chỉ số kinh tế quan trọng đều có mức tăng trưởng so cùng kỳ. Tuy nhiên, cuộc xung đột giữa Nga và U-Crai-Na đã tạo ra cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn ảnh hưởng đến hàng triệu người, bên cạnh đó cùng với lệnh cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây đối với nước Nga đã tác động mạnh lên nền kinh tế thế giới, đặc biệt là giá dầu thô, khí đốt tự nhiên, khí tự nhiên hóa lỏng tăng mạnh làm cho giá cả nguyên vật liệu sản xuất đầu vào tăng cao. Mặt khác, tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước vẫn còn diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến đà phục hồi kinh tế cả nước nói chung và của tỉnh Long An nói riêng. Tình hình các lĩnh vực cụ thể như sau:
I.Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
Cây lúa
Tổng diện tích xuống giống (gồm vụ mùa, vụ đông xuân) là 227.520,5 ha, giảm 0,04% so cùng kỳ. Tính đến ngày 15/3/2022, diện tích thu hoạch ước đạt 125.894,5 ha, giảm 7,9% so cùng kỳ (giảm do vụ đông xuân 2021-2022 nông dân xuống giống chậm hơn so với cùng kỳ). Năng suất thu hoạch ước đạt 64,7 tạ/ha, giảm 1,7% so cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch ước đạt 814.556 tấn, giảm 9,5% so cùng kỳ.
- Lúa mùa 2021-2022:Diện tích gieo cấy đạt 1.594,5 ha, giảm 8,1% so với cùng kỳ. Diện tích đất canh tác vụ mùa của tỉnh hiện nay chỉ còn 02 huyện Cần Đước và Cần Giuộc, đây là vùng hạ nguồn sông Vàm Cỏ thường xuyên ngập mặn, chỉ gieo cấy được một vụ, nhiều diện tích đất đã quy hoạch khu công nghiệp.
Đã thu hoạch xong, diện tích thu hoạch đạt 1.594,5 ha (giảm 6,7%) so với cùng kỳ. Năng suất đạt 41,4 tạ/ha (tăng 20,5%) so cùng kỳ. Năng suất tăng do tình hình thời tiết thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, diện tích trồng đê bao không bị ảnh hưởng do hạn mặn. Sản lượng đạt 6.606 tấn (tăng 12,4%) so cùng kỳ.
- Lúa đông xuân 2021-2022:Diện tích gieo cấy đạt 225.926 ha (tăng 0,03% so cùng kỳ), tập trung ở các huyện Bến Lức, Cần Đước, Thạnh Hóa, Tân Thạnh, Mộc Hóa, Tân Hưng, Đức Hòa, Thủ Thừa và thị xã Kiến Tường.
Tính đến ngày 15/3/2022, diện tích thu hoạch ước đạt 124.300 ha, giảm 7,9% so cùng kỳ. Năng suất ước đạt 65 tạ/ha (giảm 1,2% so cùng kỳ), năng suất thu hoạch giảm do lúa đang ở giai đoạn trổ gặp mưa trái mùa, thu hoạch bị đổ, ngã; giá phân bón tăng cao người dân hạn chế đầu tư. Sản lượng đạt 807.950 tấn, giảm 9,59% so cùng kỳ.
Tình hình sâu bệnh:Trên lúa đông xuân xuất hiện một số loại sâu, bệnh như: Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 1.974 ha, bệnh đạo ôn cổ bông (1.632 ha), bệnh cháy bìa lá (1.102 ha), bệnh lem lép hạt (1.038 ha), chuột (622 ha), rầy nâu (620 ha), sâu cuốn lá (71 ha), … xuất hiện trên lúa giai đoạn đòng trổ-chín ở huyện Mộc Hóa, Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Đức Hòa, Đức Huệ, Tân Trụ, Thủ Thừa, thị xã Kiến Tường và thành phố Tân An.
Một số cây hàng năm khác vụ đông xuân 2021-2022:Rau các loại trồng được 5.441,6 ha, giảm 3,3% so cùng kỳ. Cây bắp trồng được 195,3 ha (giảm 24,6%), chủ yếu ở các huyện Đức Hòa. Cây đậu phộng trồng được 77 ha (giảm 68,4%), tập trung ở huyện Thạnh Hóa, Đức Hòa. Mía trồng được 15,3 ha (giảm 75,4%), trồng chủ yếu ở huyện Thủ Thừa.
Một số cây lâu năm chủ yếu
-Cây thanh long:Diện tích hiện có 11.303,3 ha, giảm 4,4% so cùng kỳ. Diện tích trồng chủ yếu ở huyện Châu Thành, Tân Trụ, Bến Lức và Tp. Tân An. Diện tích cây thanh long không có khả năng tăng do huyện Châu Thành là chủ lực đã trồng hết diện tích, các huyện còn lại ít phát triển thêm do giá thanh long không ổn định trong khi chi phí đầu tư tăng cao. Do ảnh hưởng dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến tình hình tiêu thụ, xuất khẩu thanh long gặp khó khăn dẫn đến giá thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ, nhiều nhà kho phải đóng cửa không thu mua.
-Cây chanh:Diện tích hiện có 11.473 ha, tăng 5,9% so cùng kỳ. Diện tích tăng do diện tích trồng mía chuyển sang.
Tình hình tiêu thụ:Giá một số nông sản bình quân tháng 03 năm 2022 so với tháng trước dao động như sau: Lúa vụ đông xuân loại thường 7.114 đồng/kg (giảm 114 đồng/kg); lúa vụ mùa loại thường 6.000 đồng/kg và thu đông loại thường 6.489 đồng/kg (bằng với tháng trước); nếp 5.940 đồng/kg (giảm 61 đồng/kg); bắp (ngô) 7.000 đồng/kg (bằng với tháng trước); thanh long ruột đỏ 3.476 đồng/kg (giảm 8.688 đồng/kg); thanh long ruột trắng 3.000 đồng/kg (giảm 3.000 đồng/kg); chanh không hạt 15.840 đồng/kg (tăng 3.062 đồng/kg),...
b. Chăn nuôi
Quý I/2022, hoạt động chăn nuôi trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm được kiểm soát. Đa số các hộ chăn nuôi biết áp dụng tốt tiến bộ kỹ thuật, thực hiện tốt việc tiêm ngừa cho đàn gia súc, gia cầm, thường xuyên vệ sinh chuồng trại.
Ước tháng 03 năm 2022, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng là 44,0 tấn (giảm 2,2% so với cùng kỳ); thịt bò 435,7 tấn (tăng 4,6%); thịt lợn 1.685,7 tấn (tăng 4,8%); thịt gia cầm 3.695,9 tấn (giảm 1,1%); trứng gia cầm 56.494,6 nghìn quả (tăng 2,7%), trong đó: thịt gà 3.028,0 tấn (tăng 1,0%), trứng gà 49.379,0 nghìn quả (tăng 4,7%). Lũy kế 3 tháng đầu năm 2022, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 132,0 tấn (giảm 2,2% so với cùng kỳ); thịt bò 1.307,0 tấn (tăng 4,6%); thịt lợn 5.057,0 tấn (tăng 4,8%); thịt gia cầm 11.087,7 tấn (giảm 1,1%); trứng gia cầm 169.483,7 nghìn quả (tăng 2,7%), trong đó: thịt gà 9.080,0 tấn (tăng 1,0%), trứng gà 148.133 nghìn quả (tăng 4,7%).
Tình hình dịch bệnh:Từ đầu năm đến nay bệnh dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 36 hộ thuộc 17 xã ở 9 huyện: Tân Trụ, Thạnh Hóa, Vĩnh Hưng, Bến Lức, Cần Đước, Châu Thành, Mộc Hóa, Tân Thạnh và thành phố Tân An với tổng số heo tiêu hủy là 833 con. Các bệnh còn lại như: bệnh cúm gia cầm, lở mồm long móng, heo tai xanh, bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò và bệnh dại trên động vật không có phát sinh.
Tình hình tiêu thụ:Giá sản phẩm chăn nuôi bình quân tháng 3 năm 2022 so với tháng trước dao động như sau: Giá thịt trâu hơi 78.644 đồng/kg (bằng tháng trước), thịt bò hơi 102.592 đồng/kg (giảm 249 đồng/kg), thịt heo hơi loại thường 54.183 đồng/kg (tăng 607 đồng/kg), gà ta thịt hơi 74.756 đồng/kg (giảm 282 đồng/kg), vịt thịt hơi 43.178 đồng/kg (giảm 418 đồng/kg).
2. Lâm nghiệp
Diện tích rừng trồng mới tập trung:Ước tháng 03/2022, trên địa bàn tỉnh có 83,3 ha diện tích rừng trồng mới (bằng so cùng kỳ). Lũy kế từ đầu năm đến nay có 250,0 ha diện tích trồng mới (bằng so cùng kỳ).
Tình hình khai thác:Ước tháng 03/2022, sản lượng gỗ khai thác được 11.658,4 m3, tăng 0,3% so với cùng kỳ, chủ yếu là gỗ bạch đàn, tràm bông vàng, khai thác ở các huyện Đức Huệ, Thạnh Hóa, Tân Hưng, Tân Thạnh; khai thác cây phân tán chủ yếu ở các huyện Đức Huệ, Đức Hòa, Thủ Thừa, Bến Lức. Củi khai thác được 21.626,7 ster, giảm 0,03% so cùng kỳ. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2022, sản lượng gỗ khai thác được 34.995,0 m3(tăng 0,2% so với cùng kỳ); củi khai thác 64.880,0 ster (giảm 0,03%).
Tình hình cháy rừng:Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng.
3. Thủy sản
Hoạt động nuôi trồng thủy sản trong quý I năm 2022 phát triển mạnh, giá cả các sản phẩm đều có xu hướng tăng. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 doanh nghiệp đầu tư vào nuôi cá tra thương phẩm với quy mô lớn và nhiều hộ dân tại các huyện vùng Đồng Tháp Mười phát triển mạnh nuôi tôm thẻ nước ngọt.
- Tôm nuôi nước lợ:Ước quý I/2022, nông dân đã thả nuôi được 1.566 ha, giảm 3,2% so với cùng kỳ. Trong đó: tôm sú 75,0 ha (giảm 49,0%), tôm thẻ chân trắng 1.491 ha (tăng 1,4%). Diện tích thu hoạch ước đạt 1.233 ha (giảm 5,6%), năng suất ước đạt 3,0 tấn/ha (tăng 6,8%), sản lượng ước đạt 3.662,8 tấn (tăng 0,8%). Trong đó: diện tích thu hoạch tôm sú ước đạt 69 ha (giảm 55,9%), năng suất ước đạt 1,9 tấn/ha (giảm 4,4%), sản lượng ước đạt 132,8 tấn (giảm 57,8%); tôm thẻ chân trắng diện tích thu hoạch ước 1.164 ha (tăng 1,2%), năng suất ước đạt 3,0 tấn/ha (tăng 5,1%), sản lượng ước đạt 3.530 tấn (tăng 6,4%).
- Cá tra nuôi công nghiệp:Ước quý I/2022, diện tích thả nuôi là 75 ha, tăng 14,12% so cùng kỳ.Diện tích thu hoạch ước đạt 66 ha (tăng 25,4%), năng suất ước đạt 153,9 tấn/ha (tăng 4,0%), sản lượng ước đạt 10.157 tấn (tăng 30,4%).
-Tình hình tiêu thụ:Giá thủy sản bình quân tháng 3/2022 so với tháng 2/2022 dao động như sau:
+ Tôm sú: Loại 30 con/kg có giá 203.923 đồng/kg (tăng 643 đồng/kg); loại 40 con/kg, giá 184.074 đồng/kg (tăng 934 đồng/kg); loại từ 40 con/kg trở lên, giá 160.551 đồng/kg (tăng 907 đồng/kg).
+ Tôm thẻ chân trắng: Loại cỡ 110 con/kg có giá 95.000 đồng/kg (tăng 5.000 đồng/kg); loại cỡ 100 con/kg, giá 105.000 đồng/kg (tăng 5.000 đồng/kg); loại cỡ 80 con/kg, giá 114.076 đồng/kg (tăng 7.756 đồng/kg); loại cỡ 60 con/kg, giá 131.083 đồng/kg (tăng 4.193 đồng/kg); loại cỡ 40 con/kg, giá 142.262 đồng/kg (tăng 9.040 đồng/kg).
+ Thủy sản khác: Cá tra loại size từ 0,7 đến dưới 1 kg/con có giá 20.596 đồng/kg (tăng 122 đồng/kg); loại size từ 1 kg/con trở lên 19.496 đồng/kg (tăng 513 đồng/kg); cá trê nuôi 30.042 đồng/kg (tăng 205 đồng/kg); ếch đồng 96.229 đồng/kg (tăng 677 đồng/kg); cá lóc đồng 111.253 đồng/kg (tăng 182 đồng/kg).
- Thủy sản khai thác:Ước đến cuối tháng 3/2022, khai thác đạt 1.801 tấn, tăng 15,6% so cùng kỳ. Trong đó: khai thác thủy sản biển 903 tấn (tăng 28,9%), khai thác thủy sản nội địa 898 tấn (tăng 4,8%).
II.Sản xuất công nghiệp
Sau khi dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn tỉnh được kiểm soát, hoạt động sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản trở lại ổn định và đạt được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, tình hình chính trị trên thế giới những tháng đầu năm 2022 có nhiều biến động đã đẩy chi phí nguyên vật liệu sản xuất tăng cao ảnh hướng lớn đến hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đặc biệt làm chậm khả năng phục hồi của doanh nghiệp sau đại dịch.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 3 năm 2022 tăng 56,44% so tháng trước và tăng 12,51% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 57,96% so tháng trước và tăng 12,99% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 17,76% so tháng trước và giảm 4,39% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,84% so tháng trước và tăng 1,40% so cùng kỳ.
Chỉ số sản xuất công nghiệp quý I năm 2022 tăng 1,69% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,70%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 0,95%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,34%.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất quý I năm 2022 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp như ngành sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 31,59%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 27,88%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 9,05%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 24,74%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 8,49%; sản xuất trang phục tăng 648,34%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải; tái chế phế liệu tăng 19,87%,…
Một số sản phẩm chủ yếu trong tháng 3 năm 2022 như: hạt điều khô 5,03 nghìn tấn, tăng 28,85% so tháng trước và giảm 5,97% so cùng kỳ; gạo xay xát 29,02 nghìn tấn, giảm 17,16% so tháng trước và giảm 0,67% so cùng kỳ; thức ăn cho gia súc 64,07 nghìn tấn, tăng 29,52% so tháng trước và tăng 22,32% so cùng kỳ; nước khoáng không có ga 26.602,5 nghìn lít, tăng 35,49% so tháng trước và giảm 6,99% so cùng kỳ; vải dệt thoi từ sợi tơ tổng hợp 13.897,37 nghìn m2, tăng 28,71% so tháng trước và giảm 0,02% so cùng kỳ; túi xách 1.477,17 nghìn cái, tăng 33,37% so tháng trước và tăng 1,30% so cùng kỳ; phân khoáng hoặc phân hoá học chứa 3 nguyên tố: nitơ, photpho và kali (NPK) 36,53 nghìn tấn, tăng 83,12% so tháng trước và tăng 15,36% so cùng kỳ; xi măng Portland đen 74,5 nghìn tấn, tăng 40,72% so tháng trước và giảm 1,69% so cùng kỳ; bê tông trộn sẵn 59,91 nghìn m3, tăng 54,59% so tháng trước và tăng 11,43% so cùng kỳ,...
Lũy kế đến cuối quý I/2022 có 29/60 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng so cùng kỳ, trong đó: 12/29 nhóm sản phẩm tăng trên 20% như: bia đóng lon 4.564,36 nghìn lít (tăng 26,47%); thuốc lá có đầu lọc 26.160 nghìn bao (tăng 31,59%); neo, móc và các bộ phận rời của chúng bằng sắt hoặc thép 23,88 nghìn tấn (tăng 54,90%); bao bì đóng gói khác bằng plastic 62,90 nghìn tấn (tăng 27,28%); sắt, thép không hợp kim cán phẳng không gia công quá mức cán nguội, dạng cuộn, có chiều rộng ≥ 600mm, chưa được dát phủ, mạ hoặc tráng 41,76 nghìn tấn (tăng 20,44%); vỏ bào, dăm gỗ 20,0 nghìn tấn (tăng 42,23%);… Có 7/29 tăng từ 10%-20% như: Hạt điều khô 14,61 nghìn tấn (tăng 17,49%); túi xách 4.205,24 nghìn cái (tăng 13,44%); sợi xe từ các loại sợi tự nhiên 13,82 nghìn tấn (tăng 16,94%); bê tông trộn sẵn 201,84 nghìn m3(tăng 16,36%); các bộ phận của giày, dép bằng da 45.637,91 nghìn đôi (tăng 15,77%);… và có 10/29 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng dưới 10% như: Dịch vụ sản xuất thiết bị, dụng cụ y tế, nha khoa 114,16 tỷ đồng (tăng 8,47%); giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic 8.924,10 nghìn đôi (tăng 3,65%); dược phẩm chứa hoóc môn nhưng không có kháng sinh dạng viên 4,84 nghìn viên (tăng 5,24%);…
Nhóm sản phẩm có tốc độ giảm là 31/60 nhóm trong đó có 18/31 nhóm giảm trên 20% như: Vải dệt thoi từ sợi tơ nhân tạo 25.471,66 nghìn m2(giảm 52,27%); áo sơ mi cho người lớn dệt kim hoặc đan móc 11.372,92 nghìn cái (giảm 62,36%); dịch vụ sản xuất sợi quang và cáp sợi quang 148,04 tỷ đồng (giảm 42,98%);… có 6/31 sản phẩm giảm từ 10%-20% như: Thức ăn cho thủy sản 187,27 nghìn tấn (giảm 14,92%); dầu và mỡ bôi trơn 1,40 nghìn tấn (giảm 13,89%); cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo 95,32 nghìn tấn (giảm 10,69%);… và có 7/31 nhóm sản phẩm giảm dưới 10% như: nước khoáng không có ga 70.170,54 nghìn lít (giảm 3,59%); ba lô 2.504,36 nghìn cái (giảm 4,61%); sản phẩm gia dụng và sản phẩm phục vụ vệ sinh khác bằng plastic 40,65 nghìn tấn (giảm 9,70%);…
Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng 3 năm 2022 tăng 0,77% so với tháng trước và giảm 3,95% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,78% so tháng trước và giảm 3,96% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,09% so tháng trước và giảm 1,94% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,89% so tháng trước và giảm 6,30% so cùng kỳ.
Đến cuối quý I năm 2022, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 4,70% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 4,71%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 2,24%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải giảm 8,17%.
III. Hoạt động doanh nghiệp
Trong quý I năm 2022, tỉnh tiếp tục thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tạo ra nhiều quỹ đất sạch với giá cả cạnh tranh để thu hút thêm nhiều nhà đầu tư do đó công tác thu hút các nhà đầu tư vào tỉnh đạt được nhiều kết quả tích cực.
Từ đầu năm đến nay có 435 doanh nghiệp thành lập mới (tăng 3% so cùng kỳ), tổng số vốn đăng ký là 6.663 tỷ đồng (giảm 8%); có 74 doanh nghiệp giải thể (giảm 7%); tạm ngừng hoạt động kinh doanh 192 doanh nghiệp (tăng 32%); có 125 doanh nghiệp thông báo tạm dừng hoạt động và hiện nay đã có thông báo hoạt động trở lại (giảm 1,6%).
Theo kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh tại 98 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, trong đó có 28 doanh nghiệp (chiếm 28,57%) đánh giá xu hướng sản xuất kinh doanh quý I/2022 sẽ khả quan hơn quý IV/2021; 44 doanh nghiệp (chiếm 44,90%) đánh giá là giữ ổn định và 26 doanh nghiệp (26,53%) đánh giá là khó khăn hơn. Đánh giá tình hình sản xuất trong quý tiếp theo, theo kết quả điều tra có 46 doanh nghiệp (chiếm 46,94%) đánh giá xu hướng sản xuất kinh doanh quý II/2022 sẽ khả quan hơn quý I/2022; 35 doanh nghiệp (chiếm 35,71%) đánh giá là giữ ổn định và 17 doanh nghiệp (17,35%) đánh giá là khó khăn hơn.
IV. Đầu tư phát triển
Việc kiểm soát tốt dịch Covid-19 giúp cho hoạt động đầu tư, xây dựng trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định. Các dự án, công trình trọng điểm của tỉnh tiếp tục được các cấp, các ngành quan tâm, theo dõi sát sao tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để các dự án triển khai theo đúng tiến độ, đặc biệt là Chương trình huy động mọi nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông phục vụ phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm và 03 công trình trọng điểm của Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XI tiếp tục được tập trung, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và đạt yêu cầu đề ra. Công tác đấu thầu được chấn chỉnh, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng và hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật.
Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện quý I năm 2022 ước đạt 8.365,50 tỷ đồng, giảm 21,12% so quý trước và tăng 3,70% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 1.009,32 tỷ đồng, giảm 63,01% so quý trước và tăng 5,68% so cùng kỳ; Vốn ngoài nhà nước ước đạt 4.983,09 tỷ đồng, giảm 13,94% so quý trước và tăng 3,62% so cùng kỳ; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 2.373,09 tỷ đồng, tăng 13,71% so quý trước và tăng 3,04% so cùng kỳ.
V. Thương mại, giá cả
1. Nội thương
Trong quý I/2022, hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh đã bắt đầu hồi phục và có nhiều khởi sắc, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng trên 2%. Các loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ tết bảo đảm đầy đủ, phong phú đa dạng, không thiếu hàng sốt giá. Công tác kiểm tra thị trường, chống buôn lậu gian lận thương mại, hàng giả được tập trung.
Ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 3 năm 2022 đạt 10.680,33 tỷ đồng, tăng 6,24% so tháng trước và tăng 10,17% so cùng kỳ. Trong đó: bán lẻ ước đạt 7.248,72 tỷ đồng, tăng 2,89% so tháng trước và tăng 6,34% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 583,39 tỷ đồng, tăng 16,96% so tháng trước và giảm 5,42% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 2.848,22 tỷ đồng, tăng 13,53% so tháng trước và tăng 25,95% so cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2022 ước đạt 30.919,17 tỷ đồng, tăng 2,49% so với cùng kỳ. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 21.713,15 tỷ đồng, tăng0,22% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 1.539,39 tỷ đồng, giảm 14,04% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 7.666,63 tỷ đồng, tăng 14,25% so cùng kỳ.
2. Giá cả
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2022 tăng 0,85% so với tháng trước tăng 3,63% so cùng kỳ. Có 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với tháng trước, trong đó nhóm giao thông tăng mạnh nhất 6,27% (chủ yếu do giá nhiên liệu tăng 12,16% từ 4 đợt điều chỉnh giá ngày 21/02/2022, ngày 01/3/2022, ngày 11/3/2022 và ngày 21/3/2022), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,43%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 1,13% (vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 2,24%; dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,44%; giá điện tăng 0,50% do nhu cầu tiêu thụ điện trong tháng tăng; giá gas tăng 9,03%; dầu hỏa tăng 18,31% theo giá thị trường thế giới), đóng góp vào mức tăng chung CPI là 0,24%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,74%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,64%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,60%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,22%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,18%; nhóm giáo dục tăng 0,06%. Có 3/11 nhóm có CPI không đổi gồm nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm bưu chính viễn thông.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý I năm 2022 tăng 3,02% so với cùng kỳ năm trước. Có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó: nhóm giao thông tăng 20,64%; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,17%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,99%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 2,94%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 1,93%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,79%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,75%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,47%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%. Có 2/11 nhóm có chỉ số giá tiêu dùng giảm gồm: nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19%; nhóm giáo dục giảm 2,43%.
Chỉ số giá vàng tháng 3/2022 tăng 3,93% so với tháng trước; tăng 6,83% so với tháng 12/2021 và tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2022 tăng 0,69% so với tháng trước; tăng 0,05% so với tháng 12/2021 và giảm 1,13% so với cùng kỳ năm 2021.
VI. Vận tải, du lịch
Vận tải:Hoạt động vận tải trong quý I/2022 vẫn còn gặp nhiều khó khăn do tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và việc tăng giá xăng, dầu liên tiếp theo giá dầu thế giới. Hiện nay, tâm lý e ngại của người dân đến những nơi đông người cũng góp phần làm chậm đà phục hồi của ngành, vận tải hành khách vẫn còn giảm 33,91% so cùng kỳ.
Tổng doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 3 năm 2022 ước đạt 253,37 tỷ đồng, tăng 7,18% so tháng trước và tăng 8,54% so cùng kỳ. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 40,45 tỷ đồng, tăng 6,85% so tháng trước và giảm 23,52% so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 141,56 tỷ đồng, tăng 9,14% so tháng trước và tăng 18,75% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách ước 1.914,52 ngàn lượt người, tăng 5,22% so tháng trước và giảm 28,50% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 51.825,59 ngàn lượt người.km, tăng 5,04% so tháng trước và giảm 35,37% so cùng kỳ. Khối lượng vận tải hàng hóa ước đạt 1.747,42 ngàn tấn, tăng 7,88% so tháng trước và tăng 15,47% so cùng kỳ; luân chuyển được 123.989,01 ngàn tấn.km, tăng 6,72% so tháng trước và tăng 15,95% so cùng kỳ.
Tổng doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý I năm 2022 ước đạt 745,86 tỷ đồng, tăng 0,80% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 117,31 tỷ đồng, giảm 31,44%; vận tải hàng hóa ước đạt 406,27 tỷ đồng, tăng 6,78%. Khối lượng vận chuyển hành khách là 5.757,80 ngàn lượt người, giảm 33,91% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hành khách là 152.145,30 ngàn người.km, giảm 41,79%. Khối lượng vận chuyển hàng hóa là 5.075,31 ngàn tấn, tăng 5,21% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hàng hóa là 362.837,35 ngàn tấn.km, tăng 5,19%.
Du lịch:Trong quý I/2022, tình hình dịch bệnh Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát, nhiều hoạt động quảng bá, giới thiệu, thu hút khách du lịch đến với Long An đã được triển khai thực hiện. Trong quý I, khách du lịch đến Long An ước khoảng 135.000 lượt người, giảm 16% so với cùng kỳ, không có khách quốc tế; doanh thu ước đạt 68 tỷ đồng, giảm 15% so với cùng kỳ.
VII. Tài chính, tiền tệ
Tài chính: Lũy kế từ đầu năm đến ngày 25/3/2022, thu ngân sách nhà nước đạt 6.181,32 tỷ đồng, bằng 35,62% dự toán và tăng 14,86% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa đạt 5.225,02 tỷ đồng, bằng 38,43% dự toán và tăng 21,52% so cùng kỳ (thu xổ số kiến thiết 348,04 tỷ đồng, bằng 23,20% dự toán và giảm 22,68% so cùng kỳ); thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 956,30 tỷ đồng, bằng 25,43% dự toán và giảm 11,61% so cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách địa phương là 3.951,02 tỷ đồng, bằng 25,34% dự toán tỉnh giao và tăng 24,13% so cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 2.152,90 tỷ đồng, bằng 41,54% dự toán và tăng 27,18% so cùng kỳ; chi thường xuyên là 1.796,79 tỷ đồng, đạt 21,34% dự toán và tăng 20,58% so cùng kỳ.
Tiền tệ:Hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh trong quý I/2022 ổn định. Lãi suất huy động VNĐ phổ biến ở mức 0,1%-0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn; 4,2%-5,7%/năm đối với tiền gửi từ 6- dưới 12 tháng; 5,4%-6,9%/năm đối với tiền gửi trên 12 tháng. Lãi suất cho vay từng bước được điều chỉnh giảm nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, hộ, cá nhân bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, lãi suất cho vay phổ biến từ 5,0%-9,0%/năm đối với khoản vay ngắn hạn và 9,0%-11,0%/năm đối với khoản vay trung, dài hạn.
Tổng nguồn vốn huy động ước đến cuối quý I/2022 đạt 87.594 tỷ đồng, tăng 3,10% so với đầu năm và tăng 11,72% so cùng thời điểm năm trước; tổng dư nợ tín dụng ước đạt 102.172 tỷ đồng, tăng 5,0% so với đầu năm và tăng 17,52% so cùng thời điểm năm trước, trong đó: nợ xấu 338 tỷ đồng, tăng 4,97% so với đầu năm và giảm 28,99% so với cùng thời điểm năm trước.
VIII. Một số vấn đề xã hội
1.Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Trong quý I/2022, công tác an sinh trên địa bàn tỉnh được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện, không có hộ thiếu đói. Công tác chăm lo đời sống, người có công với cách mạng, mừng thọ người cao tuổi, thăm, tặng quà hộ nghèo, hộ khó khăn và các đối tượng bảo trợ xã hộ được quan tâm. Các khoản tiền lương, trợ cấp cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước và trợ cấp cho các đối tượng chính sách được cấp phát đầy đủ, kịp thời trước Tết.
Nguồn Ngân sách tỉnh hỗ trợ cho 41.462 đối tượng người có công với cách mạng, số tiền 7.568,5 triệu đồng; 6.296 hộ nghèo và 539 hộ di cư tự do với số tiền 3.417,5 triệu đồng; 350 người Hội người mù, số tiền 140 triệu đồng; 440 trại viên Trung tâm Công tác xã hội Long An, số tiền 110 triệu đồng; 670 học viên Cơ sở Cai nghiện ma túy Long An, số tiền 167,5 triệu đồng; chúc thọ người cao tuổi, số tiền 1.008,6 triệu đồng; 4.350 phần quà cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, số tiền 2.175 triệu đồng; 3.009 trường hợp F0 là trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật đã kết thúc điều trị Covid-19 và F1 phải cách ly do đại dịch COVID-19, số tiền 3.295,4 triệu đồng. Tổ chức trao 118 suất quà hỗ trợ trẻ em mồ côi do COVID-19 trên địa bàn tỉnh do Công ty TNHH sản xuất thương mại Thiên Quỳnh tài trợ với số tiền: 590 triệu đồng.
Tiếp tục trình UBND tỉnh ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, hỗ trợ hộ kinh doanh do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Tính đến nay, tỉnh Long An đã triển khai hỗ trợ cho 721.127 người thuộc 11/12 nhóm đối tượng với tổng kinh phí 1.203,46 tỷ đồng. Trong đó hỗ trợ trực tiếp cho 397.735 người với số tiền 993,21 tỷ đồng.
2.Giáo dục
Sau thời gian tạm ngừng đến trường vì dịch bệnh Covid-19, đến nay học sinh các cấp trên toàn tỉnh đã trở lại trường học trực tiếp (học sinh cấp THCS và THPT đã trở lại trường trong tháng 12/2021; trẻ mầm non, học sinh tiểu học trở lại trường vào ngày 14/02/2022).
Triển khai chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới (lớp 3, lớp 7 và lớp 10) theo đúng quy trình của Thông tư 25/2020/TT-BGDĐT ngày 26/8/2020 của Bộ Giáo dục và đào tạo về việc quy định lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông. Tổ chức phân công nhiệm sở đối với viên chức trúng tuyển kỳ thi đợt 2 năm 2021 (Có 44 viên chức được công nhận trúng tuyển).
3.Y tế
Tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh ổn định, các bệnh truyền nhiễm được kiểm soát tốt, công tác chăm lo sức khỏe của người dân được quan tâm. Tính đến ngày 28/03/2022, toàn tỉnh đã tiêm vắc xin Covid-19 được 93,4% mũi bổ sung và 93,3% mũi nhắc lại cho người dân trên 18 tuổi, 100% tiêm mũi 1 và 99,3% mũi 2 cho trẻ từ 12-17 tuổi, ghi nhận 46.904 trường hợp mắc bệnh Covid-19 (46.856 ca trong cộng đồng và 48 ca nhập cảnh), đã điều trị khỏi cho 45.648 ca (97,3%), có 982 ca tử vong (2,09%).
Một số bệnh chủ yếu được ghi nhận trong tháng 02/2022 như: Bệnh sốt xuất huyết 129 ca (giảm 11,64% so với cùng kỳ), lũy kế đầu năm đến nay là 213 ca (giảm 46,75% so cùng kỳ); bệnh tay chân miệng 4 ca (giảm 96,58%), lũy kế 6 ca (giảm 98,36%); bệnh lao phổi 17 ca (giảm 64,58%), lũy kế 33 ca (giảm 71,05%); bệnh thủy đậu 7 ca (giảm 83,33%), lũy kế 8 ca (giảm 90,12%); bệnh tiêu chảy 85 ca (giảm 61,54%), lũy kế 135 ca (giảm 71,28%); bệnh quai bị 1 ca (bằng cùng kỳ), lũy kế 2 ca (giảm 60%).
Số ca nhiễm HIV được phát hiện trong tháng 02/2022 là 15 ca (giảm 4 ca so tháng trước và tăng 3 ca so cùng kỳ); tử vong 2 ca (giảm 4 ca so tháng trước và bằng so cùng kỳ). Tổng số ca nhiễm HIV được phát hiện từ đầu năm đến cuối tháng 02 năm 2022 là 34 ca, tăng 2 ca so với cùng kỳ; tử vong 8 ca, tăng 4 ca so với cùng kỳ. Số bệnh nhân còn sống đang được quản lý là 3.243 ca nội tỉnh và 582 ca ngoại tỉnh. Trong 2 tháng đầu năm 2022, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm.
4.Lao động, việc làm
Trong quý I/2022, tỉnh đã giải quyết việc làm cho 7.935 lao động, đưa 01 người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Nhật Bản). Thực hiện cấp giấy phép cho người lao động nước ngoài: cấp mới 381 lao động, cấp lại 97 lao động; thẩm định nội quy 114 doanh nghiệp. Xác nhận khai báo kiểm định 22 doanh nghiệp với tổng số 372 thiết bị.
Có 8.410 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, trong đó xét duyệt 7.923 người, chi trợ cấp thất nghiệp 159,2 tỷ đồng, 72 người được hỗ trợ học nghề, 29.610 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm. Đến nay, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đã tuyển sinh đào tạo 2.560 lao động, đạt 11,13% kế hoạch (2.140 sơ cấp, 420 dạy nghề dưới 3 tháng).
5.Văn hóa - thể thao
Văn hóa: Trong quý I, toàn tỉnh tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền mừng Đảng mừng Xuân Nhâm Dần và tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới với các hình thức tuyên truyền trực quan (1.768 tấm băng rôn đường phố, 200 tấm pano hoa, 700 tấm băng rôn dọc), thông tin lưu động (765 lượt xe tuyên truyền lưu động), phát hành tờ tin ảnh thời sự và bài tuyên truyền cổ động trên địa bàn 15 huyện, thị xã, thành phố.
Biểu diễn các chương trình nghệ thuật mừng Đảng mừng Xuân Nhâm Dần như chương trình sân khấu hóa phục vụ họp mặt Tết Tỉnh ủy, chương trình nghệ thuật Tết sum vầy cho công nhân lao động, chương trình họp mặt doanh nghiệp, họp mặt văn nghệ sỹ trí thức, họp mặt các câu lạc bộ đầu năm; chương trình sơ kết lễ tri ân trong công tác phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh và chương trình nghệ thuật đờn ca tài tử phục vụ Lễ dâng hương tưởng niệm nghệ nhân, nhạc sư Nguyễn Quang Đại tại Đình Vạn Phước (huyện Cần Đước); xiếc, ảo thuật phục vụ khách du lịch tại Vườn thú Mỹ Quỳnh (huyện Đức Hòa) và biểu diễn các tiết mục ca cổ phục vụ khách du lịch tại Làng cổ Phước Lộc Thọ (huyện Bến Lức).
Thể thao:Trong quý I/2022, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch đã tổ chức thi đấu các Giải Quần vợt, Giải Cờ tướng Đại hội Thể dục thể thao tỉnh lần thứ IX và Giải Bóng đá hạng nhất giữa Câu lạc bộ Long An và Câu lạc bộ Phố Hiến trên Sân vận động Long An; phối hợp tổ chức lớp tập huấn hướng dẫn viên cơ sở về chương trình bơi an toàn, phòng chống đuối nước trẻ em trên địa bàn tỉnh. Triển khai thực hiện kế hoạch mở các lớp chuyên thể dục thể thao tại các huyện, thị xã, thành phố và kế hoạch tuyển sinh bổ sung lực lượng vận động viên cho đoàn thể thao tỉnh.
6.Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường
Cháy, nổ:Trong quý I/2022 (từ 15/12/2021 đến 14/3/2022) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 1 vụ cháy (bằng so cùng kỳ), không có người chết và bị thương; ước tổng giá trị thiệt hại là 1.000 triệu đồng (tăng 200 triệu đồng).
Bảo vệ môi trường:Trong quý I/2022 (từ 5/12/2021 đến 4/3/2020) trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và xử phạt 4 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường (giảm 4 vụ so cùng kỳ); tổng số tiền phạt là 408,7 triệu đồng (giảm 664 triệu đồng).
7.Tai nạn giao thông
Trong quý I năm 2022 (từ 16/12/2021 đến 15/3/2022) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông (tăng 9 vụ so cùng kỳ), làm chết 33 người (tăng 8 người) và bị thương 21 người (giảm 6 người). Nguyên nhân tai nạn giao thông chủ yếu là do người tham gia giao thông đi không đúng phần đường, làn đường, tránh xe, vượt xe sai quy định; chuyển hướng không quan sát; sử dụng chất kích thích khi tham gia giao thông; do hạ tầng giao thông xuống cấp./.
Website Cục Thống kê tỉnh Long An